Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Cấu trúc hội thoại trong ca dao người việt.
PREMIUM
Số trang
75
Kích thước
725.2 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1853

Cấu trúc hội thoại trong ca dao người việt.

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

KHOA NGỮ VĂN

----------------

KHÓA LUÂN T ̣ ỐT NGHIÊP ĐẠI HỌC ̣

NGÀNH SƯ PHẠM NGỮ VĂN

Đề tài:

CẤU TRÚC HỘI THOẠI TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT

Người hướng dẫn:

TS. Lê Đức Luâṇ

Người thực hiện:

Phan Thi Kim Chi ̣

Đà Nẵng, tháng 5/2013

2

MỞ ĐẦU

1.Lí do chọn đề tài

Cuộc sống của con người không thể tách rời việc giao tiếp. Có hai

phương tiện giao tiếp cơ bản trong đời sống con người, đó là giao tiếp bằng

phương tiện ngôn ngữ và giao tiếp bằng phương tiện phi ngôn ngữ. Trong đó,

hội thoại là hình thức giao tiếp quan trọng nhất của con người với ngôn ngữ là

phương tiện chủ yếu. Vì vậy, hội thoại và lý thuyết hội thoại là những vấn đề

gắn bó chặt chẽ, mật thiết với đời sống hằng ngày của chúng ta. Nghiên cứu

về yếu tố nào đó của hội thoại cũng sẽ giúp ta hiểu hơn về tâm lý, tích cách,

cử chỉ , thái độ, ngôn ngữ,…của nhân vật giao tiếp.

Là một loại hình của nghệ thuật ngữ văn dân gian, ca dao thông qua

những tín hiệu ngôn ngữ đã thể hiện phong phú và linh hoạt những hình

tượng thẩm mĩ văn học, phản ánh mọi mặt của cuộc sống sinh hoạt, những

suy tư và diễn biến tình cảm của con người. Ngôn ngữ ca dao vừa là ngôn ngữ

thơ, cũng vừa là ngôn ngữ giao tiếp. Chính vì thế, nó mang trong mình một

hình thức diễn đạt đặc biệt, giao tiếp bằng thơ. Hay nói cách khác, văn bản ca

dao là một đơn vị giao tiếp được hình thành từ lối sinh hoạt diễn xướng giao

duyên nên mang đặc điểm của văn bản hội thoại. Đặc trưng hội thoại đã chi

phối cấu trúc của ca dao.

Cuộc sống và tâm hồn dân tộc được thể hiện sinh động trong ca dao

bằng chính những tín hiệu ngôn ngữ với một hình thức diễn đạt đặc biệt mà

trong đó, hội thoại là hình thức phổ biến đặc sắc. Nó thể hiện được không khí

diễn xướng, khung cảnh hội thoại, thể hiện cả tâm tư tình cảm, mong muốn,

khát vọng của những người tham gia hội thoại. Mà qua đó, ta có thể nhìn thấy

được tài ứng đối, trí thông minh, khả năng vận dụng tài tình của nhân dân lao

động.

3

Bởi những lẽ đó, khi nghiên cứu về ca dao hay hội thoại, sẽ thiếu sót

lớn nếu ta chỉ nghiên cứu một cách riêng biệt mà không lồng ghép việc

nghiên cứu ca dao dưới góc nhìn hội thoại. Với đề tài Cấu trúc hội thoại

trong ca dao ngườ

i Viêt,̣ chúng tôi hi vọng mang lại một hướng tiếp cận mới

về ca dao nói chung và thi pháp ca dao nói riêng.

2. Lịch sử vấn đề

Những năm gần đây, việc nghiên cứu ca dao đã có bước phát triển vượt

bậc. Các nhà nghiên cứu đã chú ý đến nhiều lĩnh vực của ca dao như thi pháp,

thể thơ, kết cấu, lời, thời gian không gian nghệ thuật, hình ảnh biểu tượng, đặc

điểm ngôn ngữ…. Bên canh đ ̣ ó

, các công trình nghiên cứu về về lí thuyết ngữ

dụng học và ứng dụng lí thuyết ngữ dụng học vào phân tích hội thoại tiếng

Việt thì

lai ṛ ất phong phú

. Tuy nhiên, vấn đề tiếp cân c ̣ a dao dướ

i góc nhin ̀

ngữdung h ̣ oc̣ lại còn khá hiếm hoi, đặc biệt vấn đề “Cấu trúc hội thoại trong

ca dao” thì chưa có một công trình nghiên cứu chuyên biệt nào . Tuy vây, ta ̣

có

thể điểm qua môt ṣ ố nghiên cứu có đề câp đ ̣ ến, hoặc liên quan đến viêc̣

phân tích đăc trư ̣ ng cấu trúc hôi tho ̣ ai trong ca dao. ̣

Với việc tiếp cận ca dao người Việt theo hướng thi pháp,trong cuốn Thi

pháp ca dao (2007, nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội), Nguyễn Xuân

Kính có đề cập đến vấn đề này ở phần “các dạng kết cấu”. Tác giả đã chỉ ra

các dạng kết cấu chính trong ca dao, trong đó có kết cấu hai vế, đề cập đến

khả năng hội thoại, đối đáp trong ca dao. Ví như câu ca dao sau:

“Mình về có nhớ ta chăng?

Ta như lạt buộc khăng khăng nhớ mình

Ta về ta cũng nhớ mình

Nhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao.”

Bài “Ngôn ngữ ca dao Việt Nam” của Mai Ngọc Chừ, đăng trên tạp chí

Văn học số 2,1991 trình bày rõ đặc điểm ngôn ngữ ca dao: ““Ngôn ngữ ca

4

dao đã kết tụ những đặc điểm nghệ thuật tuyệt vời nhất của tiếng Việt: nó có

cả những đặc điểm tinh tuý của ngôn ngữ văn học đồng thời nó còn là sự vận

dụng linh hoạt, tài tình có hiệu quả của ngôn ngữ chung, ngôn ngữ hội thoại

vào một loại ngôn ngữ truyền miệng. Chính sự kết hợp giữa ngôn ngữ nói,

ngôn ngữ hội thoại với ngôn ngữ văn học tạo nên những đặc điểm riêng biệt

độc đáo của ca dao.”.

Trong bài viết Bài ca dao Tát nước đầu đình từ góc nhìn ngữ dụng học đăng

trên tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 7, 2004, Đỗ Thị Kim Liên đã vận dụng

lí thuyết hành động ngôn ngữ và lí thuyết chiếu vật và chỉ xuất để xác định

các hành động nói và vai giao tiếp, thời gian và không gian trong một bài ca

dao từ góc độ tiếp cận văn bản.

Tác giả Hoàng Kim Ngọc (2009) với công trình nghiên cứu So sánh và

ẩn dụ trong ca dao trữ tình - dưới góc nhìn ngôn ngữ - văn hoá học, đã tiếp

cận ca dao từ góc nhìn của lí thuyết giao tiếp bằng ngôn ngữ và phân tích diễn

ngôn; xem lối đối đáp giao duyên là một hình thái đặc biệt của giao tiếp bằng

ngôn ngữ. Từ đó, tác giả vận dụng các lí thuyết về so sánh và ẩn dụ của ngôn

ngữ học để nghiên cứu ẩn dụ và so sánh trong ca dao.

Trong cuốn Cấu trúc ca dao trữ tình người Việt (2009, nhà xuất bản đại

học Huế) Lê Đức Luận cũng có bàn đến vấn lời đơn và lời đôi trong cấu trúc

giao tiếp. Tác giả nhấn mạnh: ““Vận dụng lý thuyết hội thoại vào xem xét

cấu trúc nội dung lời ca là một việc làm cần thiết và đúng hướng…Khi phân

tích lời đơn (không có cấu trúc đối đáp trên văn bản), chúng ta cần phải xác

định rõ nó có dấu hiệu cấu trúc đối đáp không, nếu không thì cần xác định rõ

nó là lời đối hay lời đáp trên văn bản để lần tìm ra nguyên cớ cho cấu trúc

nội dung của lời ca, chìa khoá khám phá nội dung ý nghĩa của lời ca”.

Ngoài ra còn có một loạt các nghiên cứu, các bài viết, bài bình giảng,

phân tích đề cập đến vấn đề này.

5

Như vậy có thể thấy vấn đề hội thoại trong ca dao đã và đang được các

nhà nghiên cứu khai thác tìm hiểu trong cả những nghiên cứu chung về ca

dao, thi pháp ca dao và nghiên cứu chuyên về ngôn ngữ cấu trúc. Tuy nhiên,

trên thực tế vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu “Cấu trúc hội thoại trong

ca dao” một cách chuyên biệt. Trên cơ sở những kết quả các công trình

nghiên cứu trên,và khoảng trống vấn đề chưa được nghiên cứu, chúng tôi đã

học hỏi được rất nhiều điều và có được những kiến thức cần thiết để đi sâu,

tiến tới việc nghiên cứu cấu trúc hội thoại trong ca dao.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Cấu trúc hội thoại trong ca dao

người Việt.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu là khảo sát cuốn Kho tàng ca dao ngườ

i Viêt, ̣ (bốn

tâp̣ ), 1995. Nxb Văn hóa Thông tin.

4. Các phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành đề tài này chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp

nghiên cứu sau:

-Phương pháp thống kê, tổng hợp

-Phương pháp phân tích, so sánh

-Phương pháp nhận xét, đánh giá

7. Cấu trúc bài nghiên cứu

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tà

i gồm có 3 chương:

Chương môt:̣ Cơ sở lí luận của đề tài

Chương hai: Đặc trưng cấu trúc hội thoại trong ca dao ngườ

i Viêṭ

Chương ba: Văn hóa ứng xử giao tiếp trong ca dao

6

NỘI DUNG

CHƯƠNG MỘT

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Ca dao và đặc trưng hội thoại trong ca dao

1.1.1. Đặc trưng ca dao người Việt

Thuật ngữ ca dao được dùng với nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau. Nếu

định nghĩa theo từ nguyên thì “ca” là bài hát có khúc điệu hoặc có âm nhạc

kèm theo, còn dao là bài hát trơn, không có khúc điệu. Ca dao là từ ghép chỉ

toàn bộ những bài hát lưu hành phổ biến trong dân gian có hoặc không có

khúc điệu. Như vậy, có thể thấy thuật ngữ ca dao và thuật ngữ dân ca hầu như

không có ranh giới rõ rệt. Song trong thực tế khi giới tri thức trước đây sưu

tập các câu hát và bài hát dân gian, họ chỉ quan tâm ghi chép phần lời thơ của

những sáng tác ấy, cho nên thuật ngữ ca dao của họ dùng để gọi tên những

ghi chép ấy đã có nội dung hẹp hơn thuật ngữ dân ca: Nó chỉ phần lời thơ của

những sáng tác dân gian.

Theo Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Lê Bá Hán thì “ca dao còn gọi là

phong dao. Thuật ngữ ca dao được dùng với nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau.

Theo nghĩa gốc thì ca dao là bài hát có khúc điệu, dao là bài hát không có

khúc điệu. Ca dao là danh từ ghép chỉ toàn bộ những bài hát lưu hành phổ

biến trong dân gian có hoặc không có khúc điệu. Trong trường hợp này, ca

dao đồng nghĩa với dân ca, ca dao có thể là thơ dân gian truyền thống” [ 7,

tr.31]. Chu Xuân Diên cho rằng “ca dao là lời của bài hát dân ca đã tước bỏ

đi tiếng đệm, tiếng láy…hoăc ngư ̣ ơc l ̣ ai, l ̣ à những câu thơ có

thể bẻ thành

những làn điêu dân ca ̣ ” [11, tr.411-437]. Lê Đức Luận đinh ngh ̣ ia ̃ “ca dao là

7

lời các câu há

t dân gian và những sáng tác ngâm vinh đư ̣ ơc lưu truy ̣ ền trong

dân gian và

goi chung l ̣ à

lờ

i ca dân gian” [18, 26].

Như vậy, ca dao có

tương đối nhiều đinh ngh ̣ ia. Tuy nhiên, ta c ̃ ó

thể

hiểu chung nhất ca dao là những lời thơ dân gian được truyền miệng từ đời

này sang đời khác cho đến ngày nay.

Về nội dung, ca dao Việt Nam được xem là tấm gương phản ánh trung

thực hình ảnh thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam; là kho tài liệu

phong phú về phong tục, tập quán trong các lĩnh vực đời sống vật chất, tinh

thần của nhân dân lao động. Lời ca dao cũng chính là tình cảm chân thành,

sâu sắc của người bình dân xưa đối với quê hương đất nước, với ông bà cha

mẹ, với bạn bè, người yêu… Cũng chính nhờ vào cách thể hiện tình cảm ý nhị

tinh tế và sâu sắc mà ca dao có một sức hấp dẫn lạ lùng đối với người đọc qua

nhiều thế hệ. Đặc sắc nhất là mảng ca dao về tình yêu với lối hát đối đáp giao

duyên thể hiện tình yêu đôi lứa trong lao động, trong hội hè đình đám của các

chàng trai, cô gái. Nội dung của các câu ca dao này phản ánh mọi biểu hiện

sắc thái cung bậc tình yêu. Đó là những tình cảm thắm thiết, những niềm mơ

ước, những nỗi nhớ nhung da diết trong hoàn cảnh may mắn, hạnh phúc hay

những cảm xúc, lời than thở, oán trách nảy sinh trước những tình huống rủi

ro, ngang trái đau khổ. Do đó, nghiên cứu ca dao cũng là hành trình tìm hiểu

tâm hồn, văn hoá dân tộc.

Về hình thức, ca dao là thơ nhưng là một kiểu thơ riêng, có thể xem ca

dao đứng giữa ranh giới của thơ và lời nói có vần điệu. Ca dao cũng giống

như thơ là đều thể hiện các phương thức: kết hợp và lựa chọn, biểu hiện và

liên tưởng, sử dụng các biện pháp nghệ thuật chuyển nghĩa, sử dụng các thể

thơ,… Do tính đặc thù của phương thức diễn xướng và lưu truyền mà ca dao

khác với thơ ở khuôn hình cấu tạo, cấu trúc; về đặc trưng ngôn ngữ, tổ chức

ngôn ngữ,… Đa số văn bản ca dao có cấu tạo chỉ hai dòng thơ với cấu trúc

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!