Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Căn cứ giải quyết vụ án dân sự khi chưa có điều luật áp dụng
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN SƠN
CĂN CỨ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
KHI CHƢA CÓ ĐIỀU LUẬT ÁP DỤNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
CĂN CỨ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
KHI CHƢA CÓ ĐIỀU LUẬT ÁP DỤNG
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Định hƣớng ứng dụng
Mã số: 60380103
Người hướng dẫn: Pgs.Ts. Đỗ Văn Đại
Học viên: Nguyễn Văn Sơn
Lớp: Cao học Luật, An Giang khóa 1
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn tốt nghiệp thạc sĩ “Căn cứ giải quyết vụ án dân sự
khi chưa có điều luật áp dụng” là kết quả nghiên cứu ứng dụng của bản thân tôi,
được thực hiện bởi sự hướng dẫn tận tình của Thầy Pgs.Ts. Đỗ Văn Đại, đảm bảo
tính trung thực và tuân thủ các quy định của Nhà trường về trích dẫn, chú thích tài
liệu tham khảo. Tôi xin chịu trách nhiệm về nội dung luận văn và lời cam kết này.
Tác giả
Nguyễn Văn Sơn
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT CHỮ VIẾT TẮT TÊN ĐẦY ĐỦ
1 BLDS Bộ luật dân sự
2 BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự
3 LĐĐ Luật Đất đai
4 LHNGĐ Luật Hôn nhân và gia đình
5 QLNN Quản lý nhà nước
6 TAND Tòa án nhân dân
7 VKSND Viện kiểm sát nhân dân
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................1
CHƢƠNG 1. CĂN CỨ ÁP DỤNG TẬP QUÁN ĐỂ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN
SỰ TRONG TRƢỜNG HỢP CHƢA CÓ ĐIỀU LUẬT ĐỂ ÁP DỤNG..............8
1.1. Tập quán phải là thói quen đƣợc hình thành, thừa nhận và áp dụng rộng
rãi trong đời sống xã hội....................................................................................13
1.2. Tập quán phải rõ ràng để xác định đƣợc quyền và nghĩa vụ của các bên
trong quan hệ dân sự.........................................................................................18
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1......................................................................................28
CHƢƠNG 2. CĂN CỨ ÁP DỤNG LẼ CÔNG BẰNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VỤ
ÁN DÂN SỰ TRONG TRƢỜNG HỢP CHƢA CÓ ĐIỀU LUẬT ĐỂ ÁP DỤNG
................................................................................................................................29
2.1. Lẽ công bằng là lẽ phải đƣợc mọi ngƣời trong xã hội thừa nhận............31
2.2. Lẽ công bằng là không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của
các đƣơng sự.......................................................................................................39
2.3. Mối quan hệ giữa áp dụng lẽ công bằng và án lệ......................................42
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2......................................................................................45
KẾT LUẬN............................................................................................................46
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
BLDS và BLTTDS đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa 13, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24/11/2015 có rất nhiều quy định được
sửa đổi, bổ sung; trong đó BLTTDS 2015 có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm
2016; còn BLDS 2015 có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2017. Đáng lưu ý cả
hai Bộ luật sửa đổi, bổ sung đều theo hướng tất cả vì con người, trong đó có quyền
yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Theo quy định của pháp
luật hiện hành thì vai trò quan trọng của TAND là thực hiện chức năng xét xử các
vụ án. Tuy nhiên, trong thực tế tại các vụ án dân sự nói chung thì có những vụ án
không có điều luật áp dụng. Nhận thức được điều đó thì tại khoản 2 Điều 4 của
BLTTDS và khoản 2 Điều 14 của BLDS 2015 có quy định: “Tòa án không được từ
chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng”, đây cũng là
một trong những quyền cơ bản của con người đã được pháp luật ghi nhận.
Theo quy định tại Điều 3 của BLDS1
và Điều 4 của BLTTDS 2015
2
đã ghi
nhận một quyền cơ bản của con người, đó là quyền được Nhà nước bảo hộ bằng sự
thể chế hóa chủ trương của Đảng, về chiến lược cải cách tư pháp đã được ghi nhận
trong Nghị quyết 49/NQ-TW với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững
mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại phục vụ nhân dân,
phục sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; trong đó hoạt động tư pháp mà trọng
tâm là hoạt động xét xử phải được tiến hành có hiệu quả, hiệu lực cao.
Kể từ ngày BLDS 2015 có hiệu lực thi hành, TAND các cấp gặp nhiều lúng
túng và khó khăn, khi gặp phải những vụ án về dân sự khi Tòa án nhận đơn khởi
kiện xem xét, để thụ lý theo quy định tại khoản 2 Điều 14 của BLDS và khoản 2
Điều 4 của BLTTDS 2015, không biết giải quyết như thế nào; mặc dù, tại Điều 45
của BLTTDS 2015 có quy định: Nguyên tắc giải quyết vụ án dân sự trong trường
hợp chưa có điều luật để áp dụng là phải áp dụng tập quán; áp dụng tương tự pháp
luật; áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng nhưng
trong thực tiễn để thực hiện những nguyên tắc này, nhất là áp dụng tập quán và lẽ
công bằng trong khi xét xử thì cần thiết phải xem xét dưới nhiều góc độ. Một trong
những khó khăn đó chính là sự lúng túng trong việc áp dụng án lệ, lẽ công bằng và
1 Điều 3 BLDS 2015
2 Điều 4 BLTTDS 2015
2
tập quán pháp trong quá trình giải quyết các vụ án chưa có điều luật áp dụng. Bên
cạnh đó, tâm lý sợ sai, sợ bị hủy án nên đã gây ảnh hưởng không nhỏ trong quá
trình thực hiện áp dụng của các Thẩm phán; Khó khăn trong nhận thức, kinh
nghiệm thực tiễn của đội ngũ thẩm phán đã ảnh hưởng không nhỏ trong quá trình áp
dụng các án lệ đã được ban hành; khó khăn trong nhận thức lẽ công bằng, tập quán
pháp…. Đặc biệt là sự thiếu thốn các văn bản văn bản hướng dẫn của cơ quan cấp
trên để từ đó tạo nên sự thống nhất mới có hướng áp dụng đúng đắn trong giải quyết
các vụ án dân sự trong tương lai.
Xuất phát từ thực tế trên, tác giả nhận thấy cần thiết phải có một nghiên cứu
cơ bản, chi tiết hơn về vấn đề “Căn cứ giải quyết vụ án dân sự khi chưa có điều luật
áp dụng”. Nhưng trong phạm vi đề tài nghiên cứu ứng dụng, tác giả chủ yếu tập
trung phân tích nghiên cứu làm rõ áp dụng “Tập quán” và “Lẽ công bằng” để giải
quyết các tranh chấp vụ án dân sự như thế nào, những khó khăn, bất cập và đề xuất
khi áp dụng, mà hiện nay chưa có văn bản phát luật nào hướng dẫn cụ thể, để làm
luận văn tốt nghiệp. Tác giả mong muốn luận văn này sẽ là nghiên cứu ứng dụng
trong việc Tòa án xét xử có áp dụng tập quán và lẽ công bằng và giá trị tham khảo
nhất định trong việc hoàn thiện quy định pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua quá trình nghiên cứu nhận thấy chưa có công trình, bài viết nào nghiên
cứu sâu rộng về các khía cạnh áp dụng tập quán, lẽ công bằng trong giải quyết vụ án
tranh chấp dân sự. Các bài viết chủ yếu tập trung phân tích các khía cạnh đơn lẽ
trong việc áp dụng nguyên tắc hoặc bình luận để đăng trên các Tạp chí, Báo pháp
luật, sách, báo như:
* Một số nghiên cứu chung
Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học - Những điểm mới của BLDS năm
2015, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh. Với tài
liệu chuyên khảo trên đây, tác giả đã phân tích, nghiên cứu những điểm mới của
BLDS 2015, nhằm làm cho người đọc sự nhìn nhận một cách tổng quan và sâu hơn
về các quy định mới của pháp luật dân sự, đồng thời cũng đưa ra những đánh giá về
ưu, nhược điểm của các quy định mới trong BLDS 2015. Trong đó, phân tích điểm
mới của Điều 14 đó là: Bảo vệ quyền dân sự thông qua cơ quan có thẩm quyền; đặc
biệt nhấn mạnh khoản 2 Điều 14 BLDS 2015, về việc Tòa án không được từ chối
giải quyết vụ việc khi chưa có điều luật áp dụng, có liên quan đến áp dụng tập quán,
lẽ công bằng (Điều 5, Điều 6 của BLDS 2015);
3
Bài viết của Nguyễn Xuân Quang - Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư Phạm Tuấn Anh với tiêu đề “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ án
dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng”3
, chủ yếu bàn về điểm mới của BLDS
2015 về quyền con người được ghi nhận tất cả là sự thể chế hóa Hiến pháp 2013; đó
là “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ án dân sự vì lý do chưa có điều luật để
áp dụng” và nêu lên một số vụ kiện như: Tranh chấp về mộ phần; đòi lại các giấy tờ
liên quan đến quyền sở hữu,… bị Tòa án từ chối vì không thuộc thẩm quyền; tuy
nhiên, tác giả chưa đi sâu phân tích áp dung tập quán, lẽ công bằng như thế nào
trong giải quyết vụ án dân sự;
Nguyễn Minh Tuấn, Bình luận khoa học – BLDS năm 2015,(2016) Nxb. Tư
pháp. Tác giả đã bình luận áp dụng tập quán theo Điều 5 của BLDS 2015; để cho
rằng pháp luật sở dĩ cho quy định này bởi vì pháp luật không phải là một cái gì đó đi
ra từ sự tưởng tượng của nhà làm luật, mà nó chính là những quy tắc xử sự hình thành
từ thực tiễn trong cuộc sống. Đồng thời, trong nội dung của tác phẩm cũng đề cập đến
lẽ công bằng theo quy định và nhận thức của các chủ thể bởi lẽ tại Việt Nam, trước
đây chưa có một văn bản nào quy định về nguyên tắc “lẽ công bằng” trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự hay vụ án hình sự. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Hiến pháp 2013 đã xác định TAND là cơ
quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, sứ mệnh của TAND được xác định là bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Trên cơ
sở quy định của Hiến pháp 2013 để nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử trong bảo
vệ quyền dân sự của chủ thể, bên cạnh việc thừa nhận áp dụng án lệ, lần đầu tiên
BLDS Việt Nam thừa nhận việc áp dụng nguyên tắc chung và lẽ công bằng để giải
quyết vụ, việc dân sự khi không có quy phạm để áp dụng trực tiếp, không có thỏa
thuận, không thể áp dụng tập quán hoặc áp dụng tương tự pháp luật.
Nguyễn Văn Cừ và Trần Thị Huệ đồng (chủ biên) cuốn: Bình luận khoa học
BLDS 2015 (NXB Công an nhân dân – Tháng 12/2016). Trong nội dung của sách đã
đề cập đến việc áp dụng án lệ, lẽ công bằng, tập quán pháp theo bình luận tại điều 4,
Điều 5, và Điều 6 của BLDS năm 2015 hiện hành.
Trần Anh Tuấn làm (chủ biên) cuốn Bình luận khoa học – BLTTDS năm
2015 (nhà xuất bản Tư pháp - đã bình luận Điều 45 của BLTTDS về nguyên tắc
3 Nguồn:https://luatsuphamtuananh.com/giai-quyet-tranh-chap/toa-an-khong-duoc-tu-choi-giai-quyet-vu-andan-su-vi-ly-do-chua-co-dieu-luat-de-ap-dung/ truy cập lúc 20 giờ ngày 10/12/2019.
4
giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng là sự cụ thể
hóa nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp được pháp
luật quy định tại Điều 4 của BLDS 2015.
Bên cạnh đó còn có một số bài viết có liên quan, có thể kể đến như sau:
* Các nghiên cứu về tập quán pháp
- Nhận diện tập quán để áp dụng trong công tác xét xử vụ việc dân sự, hôn
nhân và gia đình của TAND: Tiếp theo kỳ trước và hết của tác giả Nguyễn Hải An -
2018. TAND, TAND Tối cao, 6/2018, Số 12, tr. 6 – 14. Chỉ rõ và những nhận diện
áp dụng tập quán pháp, các căn cứ khi áp dụng tập quán pháp. Thực trạng và hướng
hoàn thiện trong quá trình áp dụng trong thực tế.
Một số vấn đề về áp dụng tập quán trong quan hệ hôn nhân và gia đình của
tác giả Nguyễn Phương Lan – 2016. Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và
Pháp luật, 2016, Số 8 (340), tr. 31 – 38. Bài viết đã chỉ rõ những vấn đề trong quá
trình áp dụng tập quan trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình ở nước ta hiện nay.
Một số tập quán điển hình điều chỉnh quyền và nghĩa vụ trong quan hệ dân
sự và thực trạng áp dụng tập quán trong công tác xét xử của TAND ở nước ta của
tác giả Lê Thị Hoàng Thanh (2017) Thông tin khoa học pháp lý, Viện Khoa học
pháp lý - Bộ Tư pháp, 2017, Số 5, tr. 32 – 63. Trong bài viết đã chỉ rõ, những tập
quá pháp điều hình nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội trong công tác xét xử của
TAND, nếu những tập quán này phù hợp với mục tiêu điều chỉnh các quan hệ xã
hội của Nhà nước, nhiều Nhà nước sẽ sử dụng phương pháp thừa nhận, làm cho tập
quán đó trở thành quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung được Nhà nước đảm bảo
thực hiện. Như vậy, để được coi là tập quán pháp thì bản thân quy phạm tập quán
đó bắt buộc phải được Nhà nước thừa nhận bằng một trong hai cách: hoặc thông
qua một quy định mang tính nguyên tắc cho mọi trường hợp, hoặc thông qua một
quy định chi tiết cho từng trường hợp cụ thể.
* Các nghiên cứu về lẽ công bằng
- Lẽ công bằng trong văn học dân gian và yêu cầu trong xây dựng, thực thi
pháp luật hiện nay của tác giả Đỗ Thúy Hằng (2019) Luật sư Việt Nam, Liên đoàn
Luật sư Việt Nam, 2019, Số 1+2, tr. 47 – 50. Bài viết đã đề cập đến việc tiếp cận lẽ
công bằng từ góc nhìn của văn học dân gian ở Việt Nam sẽ cho ta cái nhìn thân
thuộc, gần gũi, đi sâu vào tâm tư, đời sống của người dân, từ đó có những ứng xử
pháp luật phù hợp hơn - cả trong quá trình xây dựng pháp luật (lắng nghe ý kiến nhân
dân) cũng như trong quá trình thực thi pháp luật, quá trình phân xử các tranh chấp…
5
- Áp dụng lẽ công bằng để giải quyết tranh chấp dân sự của tác giả Phùng
Trung Tập (2017) tạp chí Kiểm sát, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, 2017, Số 11,
tr. 35 – 41. Nội dung bài viết tập trung vào việc áp dụng lẽ công bằng trong việc
giải quyết các tranh chấp dân sự ở nước ta hiện nay. Đồng thời, chỉ rõ những rào
cản trong quá trình áp dụng trong thực tế ở nước ta hiện nay. Đề xuất những giải
pháp nhằm hoàn thiện cũng như tăng cường hiệu quả việc áp dụng lẽ công bằng
trong quá trình thực hiện.
Những nghiên cứu này tác giả có phân tích, làm rõ khái niệm, điều kiện áp
dụng, bất cập và đề xuất, mang tính chất chung. Chưa phân tích đi sâu vào thực tiễn
khi áp dụng trong từng bản án cụ thể, không chỉ rõ ra được khi áp dụng tập quán, lẽ
công bằng thì ai là chủ thể xác định tập quán, lẽ công bằng để điều chỉnh quan hệ
dân sự đó, quá trình áp dụng gặp những khó khăn vướng mắc gì, thực tiễn khi áp
dụng để giải quyết các tranh chấp dân sự vận dụng như thế nào trong từng bản án,
quyết định của Tòa án, có những điểm nào bất cập hay không thì các tác giả chưa
chỉ ra cụ thể, mà mới nói ở khía cạnh các khái niệm và khái quát nội dụng điều luật,
cũng như bước đột quá, mạnh dạng của các nhà làm luật khi đưa áp dụng tập quán,
lẽ công bằng vào một điều luật cụ thể;
Đến nay, chưa có tổng kết thực tiễn qua hơn ba năm kể từ khi BLDS 2015 có
hiệu lực thi hành và cũng chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu
và đầy đủ về quy định: “Căn cứ giải quyết vụ án dân sự khi chưa có điều luật áp
dụng, trong trường hợp áp dụng tập quán, lẽ công bằng” và cũng chưa có văn bản
nào của TAND tối cao hướng dẫn cụ thể trong xét xử hiện nay. Do vậy, cần thiết
phải có một nghiên cứu ứng dụng về vấn đề này xuất phát từ công tác xét xử.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả hướng tới mục đích chủ yếu là làm rõ việc
áp dụng tập quán và lẽ công bằng khi giải quyết vụ án dân sự, những vấn đề còn
bất cập trong thực tiễn xét xử, từ đó đưa ra các kiến nghị, đề xuất để hoàn thiện
pháp luật.
Tác giả mong rằng đề tài luận văn này sẽ trở thành một tài liệu ứng dụng có
giá trị nhất định trong việc xét xử các vụ án giải quyết tranh chấp hiện nay; khi mà
pháp luật dân sự chưa tiên liệu hết các phát sinh tranh chấp hiện nay trong đời sống
xã hội. Những hạn chế, bất cập và phương hướng, kiến nghị được tác giả đề cập
trong luận văn, với mong muốn sẽ góp phần trở thành nguồn tài liệu tham khảo hiệu
quả cho việc sửa đổi và hoàn thiện pháp luật.
6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng của nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật dân sự
có liên quan và thực tiễn áp dụng tại Tòa án các cấp có thẩm quyền khi xét xử giải
quyết vụ án dân sự có vận dụng áp dụng tập quán, lẽ công bằng để giải quyết vụ án.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả chủ yếu tập trung phân tích, nghiên cứu về những nội dung liên quan
đến áp dụng tập quán và lẽ công bằng trong cách giải quyết vụ án dân sự. Đồng
thời, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định của BLDS 2015, có đối chiếu với
BLDS 2005, các văn bản hướng dẫn thi hành trong hệ thống pháp luật dân sự Việt
Nam và đặt trong mối tương quan giữa các văn bản pháp luật hiện hành với những
phong tục tập quán, lẽ công bằng trong mối quan hệ của xã hội Việt Nam. Do luận
văn phục vụ cho vấn đề ứng dụng nên ngoài căn cứ lý thuyết còn được viện dẫn dựa
trên các sự việc, bản án, quyết định cụ thể của một số Tòa án đã áp dụng trong xét
xử để tạo tính thuyết phục về nội dung; từ đó, tác giả đưa ra quan điểm cá nhân và
kiến nghị, đề xuất. Trong quá trình nghiên cứu tác giả tập trung nghiên cứu tập quán
và lẽ công bằng để chỉ rõ những ưu điểm trong quá trình áp dụng, thực tế và rào cản
khi áp dụng đối với 02 quy định này trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự
trong thực tế ở nước ta hiện nay.
Quá trình hoàn thành luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ thể
như: Phương pháp phân tích, đánh giá, nhận định, so sánh tổng hợp được sử dụng
xuyên suốt trong đề tài. Những phương pháp này không sử dụng độc lập mà đan
xen kết hợp với nhau.
Cụ thể:
- Đối với phương pháp phân tích tác giả sử dụng trong chương 1 và chương 2
để làm rõ các quy định hiện hành của pháp luật về việc khi nào thì căn cứ áp dụng
tập quán và lẽ công bằng để giải quyết vụ án dân sự. Đồng thời làm rõ áp dụng tập
quán, lẽ công bằng dựa trên cơ sở nào để giải quyết, tính pháp lý của tập quán và lẽ
công bằng được thừa nhận như thế nào. Thông qua việc áp dụng phương pháp phân
tích trên để chỉ rõ các cơ sở lý luận trong việc áp dụng tập quán và lẽ công bằng
trong thực tiễn tại các quốc gia và quá trình áp dụng ở Việt Nam.
- Phương pháp so sánh được áp dụng trong cả hai chương với một số nước
trên thế giới về áp dụng tập quán và lẽ công bằng, nhằm phân tích định hướng cho
các nội dung liên quan đến đề tài luận văn, bên cạnh đó sẽ bình luận án đã giải
7
quyết có áp dụng đến tập quán và lẽ công bằng; cũng như nêu lên thực trạng gặp
khó khăn đang giải quyết các vụ án dân sự khi áp dụng tập quán, lẽ công bằng. Tại
mỗi chương của đề tài tác giả sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá, so sánh
cách giải quyết để tổng hợp khái quát nội dung trình bày và có kiến nghị, đề xuất
nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu tại chương 1 và chương 2 để nghiên cứu
các văn bản pháp luật có liên quan đến việc áp dụng tập quán và lẽ công bằng trong
quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự; các đề tài khoa học, chương trình, dự án,
các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành. Đồng thời, thông qua việc
áp dụng các phương pháp để tổng hợp các số liệu thu thập, điều tra được tổng hợp,
phân tích làm cơ sở đánh giá thực trạng qua đó đánh giá về thành tựu, hạn chế để
đưa ra những giải pháp giải quyết vấn đề một cách cụ thể.
5. Ý nghĩa và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên tình hình thực tiễn trong công tác xét xử hiện nay,
khi các tranh chấp trong xã hội ngày càng trở nên phổ biến và phức tạp, mà pháp luật
chưa tiên liệu hết. Đây là một nghiên cứu ứng dụng chỉ tập trung đi sâu vào phân tích
áp dụng tập quán, lẽ công bằng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Trong công
trình nghiên cứu của mình, tác giả còn đi sâu phân tích những bất cập, vướng mắc từ
thực tiễn áp dụng pháp luật nên đề tài còn có giá trị ứng dụng trong quá trình giải
quyết tại Tòa án các cấp trong hệ thống TAND của Việt Nam và góp phần hoàn thiện
những quy định của pháp luật trong giai đoạn BLDS mới sửa đổi, bổ sung cần có văn
bản hướng dẫn cụ thể trong áp dụng giải quyết mang tính đồng bộ và thống nhất.
Bên cạnh đó, các kiến nghị trong luận văn sẽ giúp ích cho các nhà làm luật
nghiên cứu, trong quá trình đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản liên quan đến công
tác xét xử, đúng như tinh thần của BLTTDS và BLDS 2015 đó là: “Tòa án không
được từ chối giải quyết vụ việc dân sự khi chưa có điều luật để áp dụng”; trong đó,
cho phép Tòa án vận dụng đến tập quán và lẽ công bằng để giải quyết vụ án dân sự.
6. Bố cục của đề cƣơng chi tiết
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn bao gồm 2 chương:
Chƣơng 1: Căn cứ áp dụng tập quán để giải quyết vụ án dân sự trong trường
hợp chưa có điều luật để áp dụng.
Chƣơng 2: Căn cứ áp dụng lẽ công bằng để giải quyết vụ án dân sự trong
trường hợp chưa có điều luật để áp dụng
8
CHƢƠNG 1
CĂN CỨ ÁP DỤNG TẬP QUÁN ĐỂ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
TRONG TRƢỜNG HỢP CHƢA CÓ ĐIỀU LUẬT ĐỂ ÁP DỤNG
Khái niệm tập quán được hiểu là; “Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ
ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ
thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa
nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc
trong một lĩnh vực dân sự”.4 Như vậy,tập quán là thói quen được hình thành và tồn
tại lâu dài trong đời sống xã hội. Một quy tắc xử sự để được thừa nhận là tập quán
thì quy tắc đó phải được một cộng đồng người gắn với một phạm vi lãnh thổ nhất
định hoặc một lĩnh vực hoạt động xã hội thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong đời
sống. Tập quán bao gồm nhiều loại, có thể là tập quán của một vùng, miền, dân tộc,
cộng đồng dân cư hoặc trong lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, tập quán có
thể là tập quán trong nước hoặc tập quán quốc tế. Tập quán chỉ được thừa nhận áp
dụng để điều chỉnh các quan hệ dân sự khi đảm bảo các điều kiện sau:
Thứ nhất, tập quán phải có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của
cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể: Tập quán để được thừa nhận thì
tập quán đó phải mang tính quy phạm, là chuẩn mực cho hành vi ứng xử của các
bên tham gia quan hệ dân sự, nói cách khác tập quán có tính khuôn mẫu, tiêu chuẩn
để xác định giới hạn và đánh giá hành vi. Chẳng hạn, ở Miền tây Nam bộ có tập
quán cố đất (tức người có đất ruộng trồng lúa cố cho người khác được làm trên thửa
đất của mình, và người đó có trách nhiệm trả một khoản tiền hay số vàng nào đó
trong một thời gian do hai bên thỏa thuận hoặc cố đến khi nào có tiền, vàng thì được
chuộc lại); hoặc tập quán trong quan hệ hôn nhân và gia đình trước đây có tập quán
ở rể (tức khi cưới vợ thì chú rể phải ở nhà gái 2 năm hoặc 3 năm, thì mới được đưa
vợ về nhà trai sinh sống). Như vậy, có thể thấy rằng các tập quán này đều chứa
đựng nội dung cụ thể, nó hàm chứa về quyền và nghĩa vụ của các bên trong các
quan hệ, nên các bên hiểu được và thực hiện được các quyền và nghĩa vụ của mình.5
Thứ hai, tập quán phải có nguồn gốc. Điều này có nghĩa là tập quán xuất
phát từ vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư nào hoặc lĩnh vực nào của đời sống
xã hội. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, bởi đây sẽ là căn cứ để chọn lựa tập
4 Khoản 1 Điều 5 của BLDS2015.
5 Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học – Những điểm mới của BLDSnăm 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội
Luật gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh.