Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Cảm hứng nhân văn trong truyện ngắn nguyễn minh châu sau 1975
PREMIUM
Số trang
146
Kích thước
1.5 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1336

Cảm hứng nhân văn trong truyện ngắn nguyễn minh châu sau 1975

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

ĐINH THỊ VIỆT HÀ

CẢM HỨNG NHÂN VĂN TRONG TRUYỆN NGẮN

NGUYỄN MINH CHÂU SAU 1975

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số: 60.22.34

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ

KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng, Năm 2012

Công trình được hoàn thành tại

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Người hướng dẫn khoa học: TS. PHAN NGỌC THU

Phản biện 1: TS. NGUYỄN THÀNH

Phản biện 2: TS. NGÔ MINH HIỀN

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận

văn tốt nghiệp thạc sỹ Khoa học Xã hội và Nhân văn họp

tại Đại học Đà Nẵng vào ngày 01 tháng 12 năm 2012

Có thể tìm luận văn tại:

- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng

- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại hoc Đà Nẵng

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1. Trong công cuộc đổi mới của văn học nước ta, Nguyễn Minh Châu

(1930-1989) là một trong những nhà văn hàng đầu của nền văn học

đương đại đã có những đóng góp xứng đáng khẳng định vị trí tiên

phong của mình, được đông đảo giới nghiên cứu công chúng và độc

giả ghi nhận.

Sau 1975 sáng tác của Nguyễn Minh Châu ngoài truyện

ngắn, tiểu thuyết, còn có cả phê bình-tiểu luận, nhưng nhìn chung,

truyện ngắn là thể loại thành công nhất và được giới phê bình, nghiên

cứu văn học dành nhiều quan tâm, chú ý hơn cả.

2. Đặc biệt, nhìn lại các chặng đường sáng tác của Nguyễn Minh

Châu, người đọc không chỉ vẫn thấy được hành trình đi tìm “những

hạt ngọc lấp lánh” ẩn giấu trong tâm hồn con người mà còn cảm thấu

cả nỗi niềm suy tư của nhà văn “ trong lo âu, một nỗi lo âu sao mà

lớn lao và đầy khắc khoải về con người”.

3. Vì vậy, tìm hiểu đề tài Cảm hứng nhân văn trong truyện ngắn

Nguyễn Minh Châu sau 1975 là sự tiếp tục đi tìm phần “tảng băng

chìm” trong thế giới nghệ thuật của nhà văn và cũng để thấy được

quy luật vận động và phát triển của nền văn xuôi đương đại nước ta

khi bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập. Mặt khác, Nguyễn Minh

Châu còn là tác giả có tác phẩm được dạy học trong chương trình phổ

thông từ nhiều năm nay. Là giáo viên có nhiệm vụ trực tiếp giảng

dạy, đối với chúng tôi, tìm hiểu đề tài này có hiệu quả cũng là việc

làm thiết thực và bổ ích.

2. Lịch sử vấn đề

Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Minh Châu là đối tượng

quan tâm nghiên cứu của giới nghiên cứu - phê bình. Chúng tôi chỉ

điểm lại một số bài viết liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận văn:

Năm 1983, trong bài: “Đọc những tác phẩm mới của Nguyễn

Minh Châu”, in trên báo Văn nghệ, số 32, nhà phê bình Ngô Thảo đã

phân tích những đóng góp, đổi mới của Nguyễn Minh Châu và cho

rằng truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đã “mang tới cho bạn đọc

niềm tin vào con người và một thái độ sống có trách nhiệm”.

Huỳnh Như Phương trên báo Văn nghệ, số 32 (04-8-1984)

nhân “Đọc “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” cũng đã phát

hiện những đổi mới trong cảm hứng sáng tạo và nghệ thuật xây dựng

hình tượng nhân vật, đề cao ý nghĩa triết lý rút ra từ những hiện

tượng được nhà văn miêu tả.

Trong bài viết “Sáng tác truyện ngắn gần đây của Nguyễn

Minh Châu” (Tạp chí Văn học, số 3, 1987), Lại Nguyên Ân đã nêu

nhận xét về một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và đánh giá

cao hướng tìm tòi của nhà văn ở phương diện truyện ngắn - tự thú,

truyện tự ý thức về đạo đức, truyện ngắn mô tả con người trong sự

giao hòa với thiên nhiên.

Trên Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 10 - 1987, nói về “Sự

khám phá con người Việt Nam qua truyện ngắn của Nguyễn Minh

Châu”, Ngọc Trai xem đây là đề tài trao đổi khá thú vị giữa các nhà

văn, nhà phê bình và cho rằng Nguyễn Minh Châu là người tập trung

khai thác mảnh đất của đời sống hàng ngày một cách có chủ định với

nhiều trăn trở, với ý thức trách nhiệm đầy đủ của một người cầm bút.

Năm 1990, trên báo Văn nghệ, số 7, Phạm Vĩnh Cư đã đưa

ra nhận xét và phân tích về những yếu tố tiểu thuyết trong truyện

ngắn của Nguyễn Minh Châu.

Trên Tạp chí Văn học số 3-1993, GS. Nguyễn Văn Hạnh,

nhân đọc tập truyện Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành đã có bài

viết “Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về

con người” đề cập đến khía cạnh tập trung của Nguyễn Minh Châu

về số phận con người, đặc biệt là những người phụ nữ, người lính,

người nông dân trong cuộc sống đời thường.

Phạm Quang Long cũng có bài viết về Nguyễn Minh Châu

và nêu nhận xét: “Thái độ của Nguyễn Minh Châu đối với con người:

niềm tin pha lẫn âu lo” (Tạp chí Văn học, số 9 -1996). Bài viết xác

định cống hiến lớn nhất ở ông là sự thức tỉnh một ý thức mới, đúng

đắn hơn trong cách nhìn nhận, đánh giá về con người, về những đổi

mới trong phương thức biểu đạt.

Hội thảo nhân 5 năm ngày mất của Nguyễn Minh Châu tổ

chức tại Nghệ An, Lê Văn Tùng có bài tham luận “Không gian Bến

quê và một sự thức nhận đau đớn của Nguyễn Minh Châu” đề cập

đến ý nghĩa nhân bản và vẻ đẹp thẩm mĩ mới mẻ trong sáng tác của

Nguyễn Minh Châu sau 1975.

Chu Văn Sơn trong “Đường tới Cỏ lau” (Báo Văn nghệ số

42, 1993) đã cảm nhận chiều sâu nhân bản tác phẩm qua giọng điệu

trầm lắng, se se buồn và phát hiện vẻ đẹp mẫu tính “đã thành một

mẫu “gien” riêng biệt của chủng loại nhân vật Nguyễn Minh Châu.

GS. Đỗ Đức Hiểu khi đọc Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh

Châu đã cho rằng tình thương yêu ấy là mạch sống của cả truyện và

góp phần nâng cao tầm vóc con người.

Nhà nghiên cứu, phê bình Hoàng Ngọc Hiến trong Văn học…

gần và xa với bài “Nét mới trong phong cách Nguyễn Minh Châu

qua truyện Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” cũng khẳng định

sự quan tâm, đào sâu loại hình bên trong này - một nét mới trong

phong cách của Nguyễn Minh Châu trong giai đoạn sáng tác sau của

ông - có giá trị nhân văn sâu sắc.

Bàn về giá trị của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975

trong việc giáo dục, hướng thiện con người, giáo sư Phong Lê đã có

lời nhận xét: với cái mấp mé hằng ngày giữa cái xấu và cái tốt, truyện

ngắn Nguyễn Minh Châu giúp níu chúng ta lại.

Lã Nguyên với bài viết “Nguyễn Minh Châu và những trăn

trở trong đổi mới tư duy nghệ thuật” đã nhấn mạnh những quan niệm

của nhà văn về con người và cuộc đời, niềm tin thiết tha vào con

người và sức mạnh bất diệt của những giá trị nhân bản... Tác giả Bùi

Việt Thắng trong bài viết “Vấn đề tình huống truyện trong truyện

ngắn Nguyễn Minh Châu (Một khía cạnh thi pháp thể loại)” cũng đã

có những ý tương tự.

Trong lời giới thiệu Nguyễn Minh Châu toàn tập, tập 1, tác

giả Mai Hương cũng đã nhìn nhận sáng tác của Nguyễn Minh Châu

giai đoạn này đã khơi trúng nguồn mạch nhân văn, đáp ứng nhu cầu

nhân bản cấp thiết đặt ra đối với nền văn học sau chiến tranh

Trong Kỉ yếu Hội thảo 5 năm ngày mất Nguyễn Minh Châu,

Hội Văn nghệ Nghệ An, 1995, tác giả Hoàng Thị Văn có bài: “Cảm

hứng nhân đạo của Nguyễn Minh Châu qua hai truyện ngắn Cỏ lau

và Phiên chợ Giát” khai thác tư tưởng nhân văn trong các tác phẩm

của Nguyễn Minh Châu.

Hai tác giả Trịnh Thu Tuyết và Xuân Thiều trong khảo sát

các truyện Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Phiên

chợ Giát và tìm hiểu truyện Mùa trái cóc ở ở miền Nam cũng đề cập

đến vấn đề quyền con người, vấn đề thức tỉnh ý thức cá nhân với khát

vọng sống bình yên, hạnh phúc.

Có thể nhận thấy, đa số các học giả, bạn đọc nghiên cứu về

truyện ngắn của nhà văn sau 1975 đều đã phần nào chạm đến giá trị

nhân văn trên hai khía cạnh chính: khát vọng hoàn thiện con người và

lòng cảm thương, ưu ái đối với thân phận con người cùng với những

biểu hiện, nghệ thuật của nó trong các bài viết của mình.

Đáng chú ý gần đây có công trình Nhà văn Nguyễn Minh

Châu và cảm hứng nhân văn của tác giả Phạm Duy Nghĩa. Công

trình nghiên cứu cảm hứng nhân văn trong toàn bộ các tác phẩm của

Nguyễn Minh Châu ở những phương diện như chủ đề - tư tưởng, thế

giới nhân vật và nghệ thuật biểu hiện.

Kế thừa ý kiến của người đi trước, luận văn này chỉ mong

muốn góp thêm một góc nhìn về cảm hứng nhân văn trong truyện

ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 để thấy được sự đóng góp của nhà

văn trong sự nghiệp đổi mới nền văn học nước nhà.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu cảm hứng nhân văn trong

truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975 trên các bình diện nội

dung, ý nghĩa và phương thức thể hiện để thấy rõ hơn những đóng

góp nổi bật của nhà văn trong nền văn xuôi đương đại Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung khảo sát các truyện ngắn của Nguyễn

Minh Châu sau 1975 qua Tuyển tập Nguyễn Minh Châu, Nxb Văn

học, H, 1994, một số tác phẩm khác của Nguyễn Minh Châu và một

số nhà văn có liên quan.

4. Phương pháp nghiên cứu

Triển khai đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên

cứu sau: Phương pháp lịch sử; Phương pháp hệ thống, cấu trúc;

Phương pháp so sánh, đối chiếu; Phương pháp phân tích, tổng hợp...

5. Đóng góp của luận văn

Luận văn góp thêm một cách tiếp cận làm sáng tỏ hơn những

đóng góp nổi bật của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong sự nghiệp

đổi mới nền văn học Việt Nam đương đại đồng thời góp thêm một tài

liệu tham khảo có thể giúp ích cho việc dạy học văn ở trong và ngoài

nhà trường.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn

được triển khai thành 3 chương:

Chương 1: Những tiền đề lí luận và lịch sử

Chương 2: Những biểu hiêṇ của cảm hứng nhân văn trong

truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975

Chương 3: Phương thức thể hiện cảm hứng nhân văn trong

truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975

Chương 1

NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ

1.1. Khái niệm nhân văn

Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng

Phê chủ biên (Nxb Đà Nẵng, 2006), khái niệm “nhân văn” được giải

thích khá sơ lược: “Thuộc về văn hóa của loài người”. Từ điển cũng

đồng nhất khái niệm nhân văn và nhân bản. Tác giả Lưu Văn Hi

trong Từ điển tiếng Việt, trang 761 của Nxb Thanh Niên, năm 2008

cũng cho rằng: “Nhân văn: Thuộc về văn hoá loài người”.Từ những

định nghĩa trên đây có thể hiểu được rằng nhân văn chính là những

giá trị làm nên vẻ đẹp của con người; nhân văn gần nghĩa với nhân

bản vì đều hướng tới những vẻ đẹp, những giá trị chỉ có bản thân loài

người mới có. Nhìn chung, nhân văn, nhân bản, nhân đạo là những

khái niệm thống nhất nhưng không hoàn toàn đồng nhất. Chúng tôi

dựa vào các cách hiểu trên đây để tiếp cận cảm hứng nhân văn trong

sáng tạo nghệ thuật và đi sâu phát hiện vẻ đẹp của cảm hứng nhân

văn trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975.

1.2. Khái niệm cảm hứng nhân văn

Cảm hứng nhân văn là trạng thái tình cảm, xúc động mãnh

liệt nảy sinh từ con người và những vấn đề về con người. Những biểu

hiện cụ thể của nó là yêu thương trân trọng mọi vẻ đẹp của đời sống

con người, nhạy cảm với nỗi đau của từng số phận và tâm trạng của

con người, tôn vinh mà không quá kỳ vọng vào con người, nhưng

cũng không bao giờ đánh mất niềm tin vào con người; quan tâm đến

môi trường sống của con người (cả môi trường tự nhiên và xã hội),

với mong muốn làm cho con người được sống tốt đẹp hơn.

1.3. Nhìn lại cảm hứng nhân văn trong văn học

1.3.1. Cảm hứng nhân văn trong văn học dân gian

Cảm hứng nhân văn trong văn học dân gian thể hiện đa dạng,

phong phú trên các phương diện đề cập đến nguồn gốc hình thành

dân tộc với niềm tự hào nòi giống, tình nghĩa đồng bào, lòng yêu

nước và ý chí chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bài học thắm đượm

tình yêu thương, những triết lý “vừa nhân hậu vừa tuyệt vời sâu xa”

như “ở hiền gặp lành”,“thương người như thể thương thân”, khát

vọng, sự thủy chung chờ đợi, lòng tự hào với thành quả lao động,

những ý nghĩa sâu xa của tiếng cười...

Tóm lại, cảm hứng nhân văn trong văn học dân gian được biểu

hiện rất phong phú và sinh động. Nếu ví nền văn học dân tộc như một

dòng sông lớn thì với nguồn cảm hứng nhân văn dào dạt, văn học dân

gian chính là ngọn nguồn không bao giờ cạn của dòng sông ấy.

1.3.2. Cảm hứng nhân văn trong văn học trung đại

Cảm hứng nhân văn trong văn học Việt Nam trung đại

chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những tư tưởng của Nho, Phật, Lão, gắn

với “tam cương, ngũ thường” mà biểu hiện cụ thể của nó là lòng

yêu nước, là ý thức trách nhiệm của người quân tử; tình yêu, sự

hòa hợp với thiên nhiên và lối sống, cách ứng xử trước thời thế để

giữ gìn khí tiết thanh cao, trong sạch của kẻ sĩ.

Nho giáo cũng có những quan niệm trái ngược với chủ nghĩa

nhân văn hiện đại. Mặt khác, từ trong lòng văn học trung đại, không

ít nhà văn, nhà thơ tài năng, với cảm hứng nhân văn mãnh liệt và cao

cả, họ đã lên tiếng tố cáo, phơi bày hiện thực xã hội, lên án giai cấp

thống trị, bênh vực cho quyền sống con người, báo hiệu cho sự rạn

nứt của thi pháp văn học trung đại như: Nguyễn Dữ, Đặng Trần Côn,

Nguyễn Gia Thiều, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du...

Trong văn học trung đại, cảm hứng nhân văn cũng đã xuất

hiện như một yêu cầu có tính lịch sử nhằm ca ngợi những giá trị tốt

đẹp của con người. Mặc dù đã có những mầm mống manh nha của

kiểu “con người hướng nội” nhưng cảm hứng nhân văn trong văn

học trung đại nhìn chung vẫn còn bị chi phối nhiều bởi tư tưởng Nho

giáo, chủ yếu gắn với hình tượng con người cộng đồng.

1.3.3. Cảm hứng nhân văn trong văn học hiện đại

Cảm hứng nhân văn trong văn học hiện đại vẫn gắn liền với

cảm hứng yêu nước, cùng chung khát vọng giải phóng con người, giải

phóng dân tộc thoát khỏi ách nô lệ, đề cao vai trò của người phụ nữ gắn

chủ nghĩa hiện thực, văn học cách mạng theo ý thức hệ của giai cấp vô

sản. Bước sang giai đoạn 1930-1945, cảm hứng nhân văn trong văn học

thực sự mang sắc thái hiện đại cả về nội dung và phương thức thể hiện

gắn với ý thức về cái tôi cá nhân, gắn với văn học lãng mạn. Cũng trong

giai đoạn này, các nhà văn thuộc trào lưu văn học hiện thực lại tập trung

hướng ngòi bút của mình về phía những người nghèo khổ để phơi bày sự

thật bất công của xã hội hồi bấy giờ, đồng cảm và thương yêu sâu sắc

với những số phận bất hạnh, khẳng định phẩm chất tốt đẹp và khát vọng

lương thiện của họ, đồng thời tố cáo những thế lực phi nhân tính, trào

lộng sâu cay cái giả dối, cái rỡm, …trái với đạo lý làm người.

Nội dung và những biểu hiện cảm hứng nhân văn trong nền văn

học mới của nước ta từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 là sự kế thừa,

phát huy, được bổ sung và đổi mới không ngừng qua các thế hệ nhà văn

đã từng gắn bó và trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến, và công cuộc

đổi mới, hội nhập hôm nay, trong đó có đóng góp của nhà văn Nguyễn

Minh Châu.

1.4. Nhìn lại hành trình sáng tác Nguyễn Minh Châu

1.4.1. Trước những năm tám mươi

Năm ba mươi tuổi, Nguyễn Minh Châu mớ

i có

truyên ng ̣ ắn

đầu tay Sau môt bu ̣ ổi tâp ̣ in trên tap ch ̣ íVăn nghê ̣Quân đôi ̣ (1960) và

khẳng đinh v ̣ i ̣trí của mình vớ

i tiểu thuyết Cửa sông (1967). Những

sáng tác truyên ng ̣ ắn của Nguyễn Minh Châu đươc t ̣ âp h ̣ ơp v ̣ à

in lai ̣

trong Những vùng trờ

i khác nhau (1970). Những năm sau đó

,

Nguyễn Minh Châu tiếp tuc cho xu ̣ ất bản các tâp ti ̣ ểu thuyết: Từ giã

tuổi thơ (1974), Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977) và

Những ngườ

i đi từ

trong rừng ra (1982)…Nhìn chung, cảm hứng chủ

đao trong s ̣ áng tác của Nguyễn Minh Châu ở giai đoan n ̣ ày vẫn nằm

trong mach c ̣ ảm hứng lang m ̃ aṇ - sử thi của cả nền văn hoc. ̣ Tuy

nhiên, từ năm 1976, tức là môt năm sau ng ̣ ày toàn thắng, Nguyễn

Minh Châu đãbắt đầu viết truyên ng ̣ ắn Bức tranh, thể hiện tính chất

tiên cảm của môt ̣ nhà văn lớn, sớm báo hiêu ̣ cho sựphản tỉnh của nền

văn hoc nư ̣ ớc nhà ở giai đoan ti ̣ ền đổi mớ

i.

1.4.2. Chăng đư ̣ ờng những năm tám mươi

Đây cũng là những năm tháng cuối cùng của cuôc đ ̣ ờ

i nhà

văn. Dường như linh cảm đươc đi ̣ ều ấy, Nguyễn Minh Châu cho in

những cuốn tiểu thuyết cuối cùng còn lai: ̣ Những ngườ

i đi từ

trong

rừng ra (1982), Mảnh đất tình yêu (1987) và nhanh chóng có sự

chuyển hướng về thể loại. Sự ra đời của truyện ngắn Bức tranh

(1982) là mốc điểm đánh dấu những chuyển biến quan trọng của

Nguyễn Minh Châu giai đoạn từ trước đến sau năm 1975. Sau đó là

hàng loạt truyện ngắn: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Dấu

vết nghề nghiệp, Bến quê, Một lần đối chứng, Chiếc thuyền ngoài xa,

Sống mãi với cây xanh, Khách ở quê ra… đến Cỏ lau, Mùa trái cóc ở

miền Nam, Phiên Chợ Giát... Ông cũng đã tâp̣ hợp các truyện ngắn

lại và cho in thành tập: Ngườ

i đàn bà

trên chuyến tàu tốc hành

(1983), Bến quê (1985). Ngoài ra, nhà văn còn thể hiện ý nghĩ về

nghề, về đồng nghiệp qua những trang tiểu luận - phê bình (Hãy đoc ̣

lờ

i ai điếu cho môt giai đo ̣ an văn ngh ̣ ê ̣ minh hoạ ). Nhìn chung,

truyên ng ̣ ắn của Nguyễn Minh Châu giai đoan sau 1975 ̣ thưc s ̣ ựcuốn

hú

t ngườ

i đoc ḅ ởi cá

i tôi của nhà văn “bi ̣chìm ngâp trong lo âu, m ̣ ôt ̣

nỗi lo âu sao mà

lớn lao và đầy khắc khoải về con ngườ

i.”

Chương 2

NHỮNG BIỂU HIÊN C ̣ ỦA CẢM HỨNG NHÂN VĂN TRONG

TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU SAU 1975

2.1. Cảm hứng nhân văn thể hiện trong quan niệm nghệ

thuật

2.1.1. Quan niệm về mối quan hê ̣giữa văn hoc v ̣ à hiên ̣

thưc̣

Nguyễn Minh Châu mong muốn, văn hoc trư ̣ ớc hết cần đem

lai cho con ngư ̣ ờ

i nhân t ̣ hức chân thưc v ̣ à sâu sắc về hiên th ̣ ưc̣ , đôi

khi phải khai chiến cả vớ

i những quan niêm t ̣ ốt đep v ̣ à

lâu dà

i của

chinh m ́

ình. Măt kh ̣ ác, tác giả còn chỉ ra giới hạn chật hẹp của quan

niệm về hiện thực trong văn học của ta suốt một thời kỳ dài, nó đã

như “cái hành lang hẹp và thấp” khiến cho mỗi người viết phải tự

mình “bạt bớt chiều cao, thu hẹp bớt chiều ngang để có thể đi lại dễ

dàng”. Ông coi đó

là “thứ văn nghệ minh hoạ”. Nhà văn đãnó

i lên

môt ̣ khá

t vong chân th ̣ ưc c ̣ ủa ngườ

i sáng tao khi c ̣ ả dân tôc đ̣ ãtrở lai ̣

cuôc s ̣ ống binh thư ̀ ờng, đồng thờ

i quan niêm ̣ ấy cũng phù hơp v ̣ ớ

i

mong muốn rất nhân bản của ngườ

i đoc, ̣ ấy là bao giờ cũng đươc đ̣ oc ̣

những tác phẩm sinh đông, chân th ̣ ât nh ̣ ất vì

:“Cuộc đời vốn đa sự

con người thì đa đoan”. Nguyễn Minh Châu còn bênh vưc cho t ̣ inh ́

ẩn du, đa n ̣ ghia c ̃ ủa văn hoc khi ph ̣ ản ánh, tá

i tao hi ̣ ên th ̣ ưc̣ .

Cũng có thể nhận thấy, việc đổi mới quan niệm về hiện thực

trong tác phẩm ở Nguyễn Minh Châu là điều đã được nhà văn quan

tâm từ giai đoạn sáng tác trước. Mong muốn của nhà văn là “đề cập

đến nhiều mặt của hiện thực của cuộc kháng chiến, có tầm rộng và

chiều sâu hơn”. Nhưng đến sau 1975, quan niêm ̣ ấy càng sáng tỏ và

cách thể hiên c̣ ũng quyết liêt hơn. ̣

2.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người

Nhin l ̀ aị các chặng đường sáng tạo nghệ thuật, có thể nhận

thấy, những sáng tác của Nguyễn Minh Châu đều bắt nguồn từ hai

hai mạch cảm hứng chủ đaọ : cảm hứng lãng maṇ - sử thi và cảm

hứng về “nỗi lo âu sao mà lớn lao đầy khắc khoải về con người”.

Nhưng từ đi tìm “hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con ngườ

i” đến

lắng sâu vào “nỗi lo âu” của từng thân phân ch ̣ inh l ́ à cả môt qu ̣ á

trinh đ ̀ ổi mớ

i quan niêm ngh ̣ ê ̣thuât c̣ ủa nhà văn về con ngườ

i. Xuất

phát từ quan niệm đề cao con người, vì con người, nhưng cũng không

quá kỳ vong v ̣ ào con ngườ

i, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, đặc

biệt là những truyện ngắn sau 1975 luôn lấp lánh giá trị nhân văn và

thu hút sự chú ý, quan tâm của rất nhiều người. Ở chặng đường sau,

cùng với đề tài chiến tranh, cảm hứng nhân văn của nhà văn quay về

với con người bình thường trong cuộc sống bình thường với đầy đủ

những góc cạnh, chiều sâu của nó.

2.1.3. Quan niệm về trách nhiệm của văn học và vai trò của

nhà văn

Vớ

i Nguyễn Minh Châu, hiên th ̣ ưc ṃ à văn hoc c ̣ ần quan tâm

hướng tớ

i nhất chính là hiên th ̣ ưc bên trong ̣ - hiên th ̣ ưc c ̣ ủa lòng

ngườ

i. Sứ mệnh cao cả của văn chương tóm lại không dừng lại ở khả

năng phản ánh hiện thực mà mà còn đi xa hơn ở cấp độ lay động tâm

hồn con người, hướng con người đến cuộc sống tốt đẹp, hoàn thiện.

Không nhìn nhà văn với con mắt cầu toàn, nhưng Nguyễn

Minh Châu rất coi trong̣ phẩm chất nhân bản không thể thiếu được

của nhà văn là tình yêu thương đối với con người và cuộc sống. Quan

niệm về sứ mệnh của văn chương và vai trò của nhà văn, Nguyễn

Minh Châu còn nó

i đến đăc trưng ̣ sáng tạo, bản lĩnh nghề nghiệp và ý

thức trách nhiệm của người nghệ sĩ. Nguyễn Minh Châu đãcó

lần

đúc kết ngắn gon ṿ à đầy đủ về vai trò của nhà văn như sau:

“ Vai trò đích thưc c ̣ ủa nhà văn là:

- Làm giàu cho suy tư và cảm xúc của nhân loai.̣

- Góp kinh nghiêm s ̣ ống cho đờ

i.

- Làm phong phú và

tế nhi ̣tiếng me ̣đẻ.”

2.2. Cảm hứng nhân văn thể hiện qua thế giới hình tượng

nhân vật

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!