Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Các mục tiêu chính hiện nay mà CPH có triển vọng giải quyết
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
LỜI NÓI ĐẦU
Cổ phần hoá(CPH) một bộ phận doanh nghiệp nhà nước(DNNN) là chủ
trương lớn của đảng và nhà nước nhằm huy động vốn nhàn rổi trong xã hội để
tiếp sức thêm nguồn lực cho doanh nghiệp (DN) góp phần cơ cấu lại DN trong
nền kinh tế quốc dân. Với yêu cầu đó, hệ thống DN được sắp xếp lại theo nghị
định 388/HĐBT và nghị định 500/TTG của thủ tướng chính phủ. Số lượng
DNNN giảm từ trên 12.000 DN (1991) xuống còn trên 6.000 DN (1997). Có
khoảng trên 70 công ty nhà nước nguồn vốn tại doanh trên 70.000 tỷ đồng. Hàng
năm số vốn này tiếp tục tăng trưởng và được đầu tư mở rộng sản xuất.
Cổ phần hoá là một giải pháp kinh tế lớn đuợc lựa chon nhằm thực hiện
chiến lược chung là phát triển kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên cho đến nay CPH diễn ra chưa thực sự nhanh chóng và đồng bộ,
bởi còn gặp nhiều khó khăn. Để giải thích tình trạng này một số nguyên nhân đã
được chỉ ra như : Mục tiêu CHP chưa được rỏ ràng, cưa được sự hưởng ứng nhiệt
tình của cán bộ, công nhân viên chức các công ty thuộc diện CPH. Thị trường
chứng khoán được hình thành chưa lâu nên còn khá mới lạ với người Việt nam.
Chiếm đội ngủ cán bộ kinh doanh giỏi, hệ thống pháp luật chưa đáp ứng kịp sự
phát triển nhanh chóng của nền kinh tế nước nhà, còn có nhiều kẻ hở trong pháp
luật.
Đến năm 1992 bằng quyết định 202/CT ngày 8/6/1992 của thủ tướng chính
phủ cho thí điểm một bộ phận DNNN thành công ty cổ phần. Lúc đó công tác
CPH mới thực sự đi vào cuộc sống và nó trở thành một giải pháp hữu hiệu để cơ
câú lại khu vực DNNN và nâng cao hiệu quả hoạt động của DN cổ phần. Tuy
nhiên từ khi bắt đầu khởi xướng cho đến khi thí điểm đã gần 10 năm nay nhưng
chỉ mới chuyển được không nhiều DNNN thành công ty cổ phần theo nghị định
28/CP. Trog đó Bộ Giao Thông Vận Tải có một công ty đó là công ty cổ phần đại
lý liên hiệp vận tải (GEMADEP).
Sau 4 năm làm thí điểm bằng nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 và quyết định
548/TTG ngày 13/8/1996 của thủ tướng chính phủ đã chính thức hoá từ thời kì
làm thử sang thời kì làm thật. Việc chuyển một DNNN sang công ty cổ phần mà
1
ta gọi quen là cổ phần hoá. Tại đại hội đảng VIII, chủ trương kinh tế lớn này lại
được khẳng định một lần nữa với yêu cầu tổng kết kinh nghiệm, hoàn chỉnh
khuôn khổ pháp lý tạo điều kiện triển khai một cách tích cực và vững chắc với
mục tiêu nhất quán là tạo thêm động lực mới trong quản lý, huy động thêm vốn
cho yêu cầu phát triển và điều chỉnh cơ cấu khu vực DNNN.
Từ thực tiển tiến hành công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước theo định
hướng XHCN và kinh nghiệm thu được qua quá trình chỉ đạo, điều hành sản xuất
kinh doanh. Chúng ta xác định được rằng cải cách DNNN một cách triệt để là yêu
cầu có tính quyết định để tăng cường phát triển sản xuất và thúc đẩy DNNN hoạt
động hiệu quả hơn. trong nhiều năm qua đảng và nhà nước ta đã kiên trì tiến hành
công tác sắp xếp, đổi mới các DNNN và đã đạt được một số kết quả nhất định
như giảm mạnh số lượng DNNN, năng cao quy mô bình dân, giảm bớt được sự
tài trợ của ngân sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Mục tiêu nhất quán của CPH một bộ phận DNNN là để huy động vốn, tạo
điều kiện để người lao động làm chủ thực sự trong DN, tạo động lực bên trong
thay đổi phương thức quản lý nhằm năng cao hiệu quả và sức cạnh tranh cuả DN,
đồng thời làm tăng tài sản và cơ cấu DN.
2
NỘI DUNG
1. CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ KINH NGHIỆM CỔ PHẦN HOÁ DNNN.
1.1 Sơ lược vài nét về thực chất của cổ phần hoá
Thực chất của cổ phần hoá là gì?
Vấn đề này hiện nay có ba ý kiến khác nhau; loại ý kiến thứ nhất thì cho rằng
thực chất của CPH là tư nhân hoá. Loại ý kiến thứ hai cho rằng CPH nhằm mục
đích xác định chủ sở hưu cụ thể đối với DN. Còn loại ý kiến thứ ba cho rằng thực
chất của CPH là xã hội hoá DNNN.
Theo tôi thì các quan điển trên đây chỉ đúng một phần. Trước hết tư nhân
hoá và CPH là hai khai niệm khác nhau. Tư nhân hoá là quá trình chuyển sở hữu
nhà nước sang sở hữu tư nhân. để thực hiện quá trình này có thể sử dụng rất
nhiều phương pháp: bán cho tư nhân , cho không CNVC hoặc toàn dân, giải thể
và bán đấu giá sản phẩm, CPH… tóm lại CPH chỉ là một trong nhiều cách để tư
nhân hoá một phần tài sản của DNNN. Vậy khái niệm tư nhân hoá rộng hơn, khó
khăn hơn quá trình cổ phần hoá.
Quá trình CPH phải nhằm giải quyết được 4 vấn đề :
Về sở hữu: nhằm đa dạng hoá quyền sở hữu và cụ thể hoá chủ sở hữu.
Về hoạt động : nhằm thương mại hoá mọi hoạt động của DN.
Về quản lý: luật pháp hoá tổ chức quản lý( theo luật công ty đã ban hành và
các luật khác)
Về hiệu quả: nhằm nâng coa hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN. Ba vấn đề
đầu sẻ là tiên đề cho vấn đề thứ tư.
Hình thức CPH có thể khác nhau tuỳ theo điều kiện:
Có thể bán DNNN cho các cổ đông là tư nhân, cá thể trong trường hợp nhà
nước không cần giữ DN đó trước hình thức quốc doanh.
Có thể bán DNNN cho các cổ đông có từ hai đến bốn thành phần: quốc
doanh và tập thể , quốc doanh và tư nhân, tập thể và tư nhân…
Trong thực tế có thể bán DNNN cho các DN và các DNNN khác. trường
hợp này vẩn có lợi hơn là giử DNNN như củ vì nó không thể đạt yêu cầu thứ nhất
là CPH DNNN nhưng đạt ba yêu cầu tiếp theo.
3
Trong quá trình thực hiện QĐ 202/CT của chủ tịch hội đồng bộ trưởng về
CPH, nhà nước cần phải kết hợp hai biện pháp kinh tế và hành chính.
Nội dung chính của biện pháp hành chính là nhà nước ra lệnh bắt buộc DN
phải thực hiện CPH, nế thấy đủ điều kiện mà lảnh đạo DN không chịu làm. chúng
ta không có con dường nào khác tiến lên ngoài con đương CPH phần lớn các
DNNN. Nhưng đây là con đường chông gai là cục cách mạng thực sự. Cuộc cách
mạng này có khi còn ác liệt hơn cách mạng có hai chiến tuyến: địch ta rỏ rệt vì về
hình thức “ quân ta ” đánh “ quân mình” . Điều đó nhắc nhở chúng ta rằng, mặc
dù ta có nhiều điều kiện thuận lợi, củng không nên đơn giản hoá và nóng vội
trong việc CPH các DNNN.
Quá trình cổ phần hoá.
Nội dung thí điểm CPH một số DNNN ở Việt nam. Như mọi người đều biết,
từ 1986 Việt Nam chủ trương đẩy mạnh công cuộc đổi mới về mọi mặt. Đến
tháng 11/1987, chín phủ đã nhận thấy cần phải CPH một số DNNN và muốn thế
trước hết phải làm thí điểm. Quyết định đó là mới nhưng quá sớm với điều kiện
lúc đó.
Bao cấp của nhà nước cho các DNNN còn rất lớn chưa làm bộc lộ hết những
yếu kém khu vực này. vì thế tuy có chủ trương nhưng nhà nước củng chưa thấy
hết sự bức bách, sống còn của việc thực hiện cổ phần hoá một số DNNN. Do đó
chủ trương CPH các DNNN chưa thành hiện thực.
Kinh tế thị trường chưa phát triển mọi hoạt động của DNNN chưa được
thương mại hoá.
Chưa có sự thống nhất về quan điểm quyết tâm trong toàn đảng, toàn dân nên
không thể làm được.
Tóm lại một chủ trương đúng của đảng nhưng do điều kiện khách quan và
chủ quan nên bị lảng quên.
Đến 10/5/1990, tức là hơn hai năm sau, chính phủ lại có quyết định
143/HĐBT trong đó đã nhắc lại chủ trương CPH một số DNNN. Trên thực tế đã
có nơi thành lập công ty cổ phần hoặc CPH một phạm vi nào đó của DNNN.
Nhưng nhìn chung không theo một bài bản nào cả nên rất khó xử lý. Một số
4
nguyên nhân dẩn đến chủ trương CPH một phần DNNN năm1990 không thành
công.
Sự thống nhất của đảng và các cấp chưa cao.
Sự chuẩn bị của các cấp các ngành thiếu chu đáo.
Một số bộ, nghành, địa phương và DNNN còn có tư tưởng ỷ lại, chờ đợi
hoặc không muốn làm.
Mục tiêu CPH một số DNNN.
CPH các DNNN lần này nhằm đạt ba mục tiêu theo thứ tự của ưu tiên như
sau:
Mục tiêu thứ nhất là, phải chuyển một phần quyền sở hữu về tài sản của nhà
nước thành sở hữu của cổ đông nhằm nâng coa hiệu quả sản xuất kinh doanh của
DNNN. Tuy nhiên vẩn có hai trường hợp đặc biệt không chuyển quyền sổ hữu
mà chỉ chuyển quyền sử dụng đó là:
Đất của DN, vì cho đến tháng 8 năm 92 luật pháp việt nam vẩn chưa cho bán
đất.
Trường hợp các cổ đông là các DN tổ chức kinh tế quốc doanh thì chỉ
chuyển uyền sử dụng của tài sản nhà nước mà thôi.
Mục tiêu thứ hai là: phải huy động được một lượng vốn nhất định ở trong và
ngoài nước để phát triển sản xuất kinh doanh. Các DNNN thiếu vốn nghiêm trọng
nhưng lấy ở đâu ? nhà nước khoong thể và không nên tiếp tục cung cấp vốn cho
một khu vực làm ăn kém hiệu quả. Vậy để có vốn DNchỉ có thể huy động dược
qua hình thức cổ phần hoá. Việc bán cổ phần cho người nước ngoài là cần thiết
và có thể làm được vì:
Ta đang thiếu vốn mà họ đang thừa vốn, đang cần thị trường đầu tư.
Ta thiếu kỉ thuật mà họ đã phát triển.
Ta thiêú kiến thức và kinh nghiệm quản lýkinh tế thị trường trong khi họ dày
dặn và sẳn sàng truyền đạt cho ta.
Song bán cổ phần cho người nước ngoài trong khi làm thí điểm là không nên
vì:
Một là, thí điểm thì có thể thanh công hoặc thất bại vì thế không thể để
người nước ngoài chịu rủi ro đó.
5