Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của bộ luật dân sự
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thừa kế là một quan hệ pháp luật phổ biến trong đời sống xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, khi số lượng và giá trị tài sản của cá nhân ngày
càng đa dạng, phong phú thì vấn đề thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng
tranh chấp. Bộ luật dân sự của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1995 quy định các điều kiện có hiệu lực của di chúc, nhưng việc hiểu và áp
dụng những quy định đó trong việc giải quyết phân chia di sản thừa kế theo di
chúc trên thực tế còn nhiều bất cập. Những khó khăn thường được thể hiện
trong việc xác định phải có những điều kiện gì thì di chúc mới được coi là
hợp pháp, điều kiện của người lập di chúc, ý chí của người lập di chúc, nội
dung của di chúc và hình thức của di chúc. Trong thực tiễn thì các quy định
của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc còn có những cách hiểu
khác nhau, dẫn tới việc nhận định và quyết định không giống nhau của một số
bản án giải quyết cùng một vụ án tranh chấp về các điều kiện có hiệu lực của
di chúc. Do vậy, việc nghiên cứu nhằm làm rõ những quy định của pháp luật
về các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự năm
1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 là đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của lý
luận và thực tiễn. Qua nghiên cứu đề tài, tác giả cũng muốn xác định ý nghĩa
của chế định về quyền thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng.
Với việc nghiên cứu đề tài, tác giả muốn hoàn thiện hơn nữa những quy định
pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc, nhằm mục đích nâng cao
hơn nữa hiệu quả điều chỉnh của những quy định này trong Bộ luật dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cũng như thừa kế theo pháp luật, thừa kế theo di chúc nói chung và
các điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng đã được hầu hết các luật gia,
1
các nhà lập pháp của các nước trên thế giới nghiên cứu. Có thể dễ dàng nhận
thấy rằng, Bộ luật dân sự của các nước đều quy định về quyền định đoạt bằng
di chúc của chủ sở hữu tài sản nhằm chuyển dịch tài sản của mình cho người
khác. Quyền định đoạt bằng di chúc là quyền dân sự được Nhà nước bảo hộ,
được ghi nhận trong Hiến pháp của Nhà nước ta và của các nước khác trên thế
giới.
Ở nước ta, việc nghiên cứu về thừa kế theo di chúc nói chung và nghiên
cứu về các điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng đã có từ xa xưa. Chúng
ta có thể kể đến nhiều bộ luật như: Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long, Dân
luật Bắc kỳ, Dân luật Trung Kỳ...
Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, các điều kiện có hiệu
lực của di chúc cũng đã được các nhà lập pháp nghiên cứu, nhưng những quy
định đó còn đơn giản và chưa đầy đủ. Trong số các loại văn bản này, đáng
chú ý là Thông tư số 81-TATC ngày 24-7-1981 của Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn giải quyết tranh chấp thừa kế (đúc kết từ thực tiễn xét xử của
ngành Tòa án nhân dân) và Pháp lệnh Thừa kế ngày 10-9-1990. Chỉ khi Bộ
luật dân sự năm 1995 được ban hành thì vấn đề các điều kiện có hiệu lực của
di chúc mới được quy định rõ ràng hơn. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện
Bộ luật này, cũng còn nhiều vấn đề cần phải trao đổi.
Về kết quả nghiên cứu của các luật gia: Tính đến thời điểm hiện nay
cũng đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về thừa kế, nhưng chỉ có
một số ít công trình nghiên cứu về thừa kế theo di chúc. Đáng chú ý trong các
công trình nghiên cứu này, phải kể đến đề tài: "Thừa kế theo pháp luật của
công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay" của tiến sĩ Phùng Trung Tập; đề
tài: "Thừa kế theo di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam" của
tiến sĩ Phạm Văn Tuyết; cuốn sách: "Một số suy nghĩ về thừa kế trong luật
dân sự Việt Nam" của tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện... Tuy nhiên, những công
trình trên không nghiên cứu riêng và có tính hệ thống về các điều kiện có hiệu
2
lực của
di chúc.
Nhận thức được vấn đề này, tác giả luận văn đã nghiên cứu trong một
diện hẹp về các điều kiện có hiệu lực của di chúc để nhằm làm sáng tỏ việc
xác định các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân
sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005. Với kết quả nghiên cứu của đề tài:
"Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự"
sẽ giúp các cơ quan lập pháp ban hành các văn bản dưới luật để hoàn thiện
những quy định về điều kiện có hiệu lực của di chúc, đồng thời giúp các cơ
quan áp dụng pháp luật trong việc nhận thức đúng đắn và toàn diện khi giải
quyết những tranh chấp về các điều kiện có hiệu lực của di chúc.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Nội dung của luận văn không nghiên cứu toàn diện những quy định
của pháp luật về thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng, mà chỉ
tập trung nghiên cứu về các điều kiện có hiệu lực của di chúc được quy định
trong Bộ luật dân sự của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1995 và
có sự đối chiếu với những quy định tương ứng trong Bộ luật dân sự của Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 (có hiệu lực kể từ ngày 1-1-2006).
Qua đó, tác giả so sánh, đối chiếu với những quy định pháp luật trước khi Bộ
luật dân sự được ban hành để làm nổi bật tính hiện đại của những quy định về
các điều kiện có hiệu lực của di chúc trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ
luật dân sự năm 2005. Mặt khác, đề tài cũng có sự so sánh (ở diện hẹp) về các
điều kiện có hiệu lực của di chúc ở các nước như Nhật Bản, Cộng hòa Pháp
với Việt Nam để làm nổi bật những nét đặc thù và tính hiện đại của pháp luật
Việt Nam quy định về các điều kiện có hiệu lực của di chúc.
Trong quá trình nghiên cứu, một số các quy định của pháp luật có liên
quan đến nội dung của đề tài cũng được tìm hiểu như: Năng lực pháp luật dân
3
sự, năng lực hành vi dân sự, giao dịch dân sự... theo pháp luật dân sự Việt
Nam để có sự so sánh, đối chiếu, với mục đích làm nổi bật những quy định
của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về các điều kiện có hiệu
lực của di chúc theo quy định của pháp luật ở Việt Nam.
- Luận văn tập trung nghiên cứu có hệ thống và toàn diện từng điều
kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 và
Bộ luật dân sự năm 2005, hiệu quả điều chỉnh của những quy định pháp luật
về các điều kiện đó. Luận văn tìm ra những điểm phù hợp với đời sống xã hội
và những điểm cần phải bổ sung các quy định về các điều kiện có hiệu lực của
di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.
- Qua nghiên cứu, tác giả luận văn có những kiến nghị nhằm hoàn
thiện một bước những quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của
di chúc, giúp các nhà lập pháp bổ sung những quy định còn thiếu về các điều
kiện có hiệu lực của di chúc để đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của xã hội
trong quan hệ thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, luận văn sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó,
những phương pháp khoa học khác như: So sánh, phân tích, tổng hợp, thống
kê cũng được sử dụng để giải quyết những vấn đề mà đề tài đã đặt ra.
Một số vụ án giải quyết tranh chấp về các điều kiện có hiệu lực của di
chúc cũng được sử dụng có chọn lọc để bình luận và các số liệu thống kê của
ngành Tòa án nhân dân cũng được tham khảo để việc nghiên cứu được toàn
diện và sâu sắc hơn.
4
6. Kết quả đạt được và những điểm mới của luận văn
- Luận văn phân tích có hệ thống những quy định pháp luật về các
điều kiện có hiệu lực của di chúc. Qua nghiên cứu, luận văn chỉ ra những quy
định phù hợp với quan hệ thừa kế theo di chúc và những điểm còn bất cập về
các điều kiện có hiệu lực của di chúc trong Bộ luật dân sự năm 1995, những
điểm cần hướng dẫn thực hiện theo Bộ luật dân sự năm 2005.
- Kết quả nghiên cứu đề tài, tác giả đã có những điểm mới sau đây:
+ Đây là đề tài khoa học được nghiên cứu lần đầu tiên ở nước ta ở cấp
thạc sĩ luật học.
+ Luận văn hệ thống hóa được những quy định pháp luật về điều kiện
có hiệu lực của di chúc ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, làm cơ sở để
nghiên cứu toàn diện và hệ thống những quy định của pháp luật về các điều
kiện có hiệu lực của di chúc được quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995 và
Bộ luật dân sự năm 2005.
+ Luận văn chỉ ra những hạn chế, những vấn đề còn thiếu của những
quy định pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc trong Bộ luật dân sự
năm 1995, phân tích những quy định về các điều kiện có hiệu lực của di chúc
theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, qua đó có những kiến nghị khoa
học nhằm hoàn thiện những quy định pháp luật về các điều kiện có hiệu lực
của di chúc trong Bộ luật dân sự năm 2005.
+ Luận văn chỉ ra được những bất cập trong việc hiểu không đúng các
quy định pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc trong việc áp
dụng pháp luật, đồng thời có những kiến nghị để các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành những văn bản hướng dẫn cần thiết.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 10 mục.
5
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DI CHÚC
1.1. VÀI NÉT VỀ THỪA KẾ VÀ QUYỀN THỪA KẾ
Ngay từ khi nhà nước và pháp luật chưa ra đời thì quan hệ thừa kế đã
tồn tại như một yếu tố khách quan. Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh
tế có mầm mống và xuất hiện ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài
người. Thừa kế và để lại thừa kế mặc dù chưa được điều chỉnh bằng các quy
phạm pháp luật, nhưng nó vẫn tồn tại một cách khách quan trong xã hội. Ở
thời kỳ này, quan hệ thừa kế dựa trên quan hệ huyết thống và do những phong
tục tập quán riêng của từng bộ lạc, thị tộc quyết định.
Quan hệ thừa kế là một quan hệ pháp luật xuất hiện đồng thời với
quan hệ sở hữu và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Khi
có tư hữu, nhà nước ra đời, quyền thừa kế được pháp luật quy định, bảo vệ.
Mỗi nhà nước khác nhau có hệ thống những quy phạm pháp luật về thừa kế
khác nhau. Pháp luật thừa kế thể hiện rõ bản chất giai cấp. Quyền thừa kế với
tư cách là một chế định pháp luật, luôn gắn liền với một nhà nước nhất định.
Trong chế độ phong kiến và tư bản, giai cấp bóc lột chiếm hữu hầu hết
tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Các quy định của pháp luật thừa kế phong
kiến và tư bản đảm bảo sự chuyển dịch tài sản từ người bóc lột này sang
người bóc lột khác. Qua việc chuyển dịch tài sản bằng hình thức thừa kế, giai
cấp tư sản, giai cấp phong kiến duy trì sự thống trị cả về chính trị và kinh tế.
Bằng công cụ pháp luật nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng, giai cấp
bóc lột duy trì sự thống trị xã hội từ thế hệ này sang thế hệ khác qua việc nắm
giữ các tư liệu sản xuất, để từ đó nắm giữ thành quả lao động của xã hội. Có
thể nhận thấy rằng, bản thân thừa kế không tạo ra quyền thống trị cho giai cấp
bóc lột mà nó chỉ duy trì quyền lực đó mà thôi.
6
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất thuộc về nhân dân lao
động. Vì vậy, pháp luật thừa kế trước hết đảm bảo cho công dân yên tâm lao
động, sản xuất, hưởng thành quả lao động của mình và có quyền để lại thành
quả lao động đó cho người khác theo di chúc hoặc theo pháp luật khi người
đó chết. Pháp luật về thừa kế trong chế độ xã hội chủ nghĩa đã động viên,
khuyến khích được nhân dân trong việc tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội.
1.2. DI CHÚC VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA DI CHÚC
1.2.1. Di chúc
Theo quy định tại Điều 649 Bộ luật dân sự năm 1995 và Điều 646 Bộ
luật dân sự năm 2005: "Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển
tài sản của mình cho người khác sau khi chết". Di chúc chính là phương tiện
để phản ánh ý chí của người có tài sản trong việc định đoạt tài sản của họ cho
người khác hưởng sau khi người lập di chúc chết. Một người có thể có nhiều
bản di chúc định đoạt một loại tài sản và những di chúc này đều thể hiện ý chí
tự nguyện của họ, phù hợp với những quy định của pháp luật nhưng không
phải tất cả các di chúc trên đều phát sinh hiệu lực mà di chúc có hiệu lực pháp
luật là di chúc thể hiện ý chí sau cùng của người lập di chúc.
Di chúc thường được thể hiện thông qua một hình thức nhất định.
Theo quy định tại Điều 652 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 649 Bộ luật dân
sự năm 2005), di chúc được thể hiện dưới hai hình thức: Di chúc bằng văn bản
và di chúc miệng. Pháp luật chỉ cho phép người lập di chúc miệng trong
những trường hợp đặc biệt theo quy định tại Điều 654 Bộ luật dân sự năm
1995 (Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2005). Về chữ viết trong di chúc cũng
được pháp luật quy định: Đối với người dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc
bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình.
Với những quy định trên, pháp luật dân sự nước ta đã có những quy
định cụ thể về di chúc. Cùng chung sống trên đất nước ta gồm có nhiều dân
tộc, nên pháp luật dân sự cũng đã tính đến yếu tố lịch sử, nhận thức… tạo
7
điều kiện cho mọi cá nhân thực hiện quyền lập di chúc, nếu cá nhân đó có
năng lực lập di chúc theo luật định.
Đối với di chúc bằng văn bản, pháp luật quy định có 4 loại di chúc
bằng văn bản: Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, di chúc bằng
văn bản có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có chứng thực của công
chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và
di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được chứng nhận, chứng thực.
Quyền của người lập di chúc được pháp luật quy định tại Điều 651 Bộ
luật dân sự năm 1995, bao gồm những quyền sau:
- Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
- Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
- Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
- Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản;
- Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Trong thực tế thì không phải bất cứ người lập di chúc nào cũng thực hiện
đúng các quyền được ghi nhận trên, hoặc là sử dụng một phần, hoặc lại sử dụng
quá cả phần quyền được pháp luật quy định. Về thực hiện quyền phân định di
sản thì người lập di chúc cũng có sự phân định di sản khác nhau: Có di chúc chỉ
phân định một phần di sản cho người thừa kế, còn một phần di sản di chúc
không nhắc đến. Trên thực tế cũng có những di chúc định đoạt cả phần tài sản
của người khác (thường là định đoạt toàn bộ tài sản chung vợ chồng). Trong
trường hợp này, di chúc chỉ có hiệu lực một phần tương ứng với di sản của
người lập di chúc.
Theo quy định của Bộ luật dân sự Pháp thì di chúc có nhiều điểm
tương tự như pháp luật dân sự nước ta, được thể hiện:
8
Điều 895 quy định: "Di chúc là một chứng thư theo đó người để lại di
chúc định đoạt sau khi chết, một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình, người
đó có thể hủy bỏ di chúc" [5].
Điều 967 quy định: "Mọi người đều có thể định đoạt bằng di chúc để
lập thừa kế hoặc để di tặng hoặc được gọi bằng bất cứ tên nào khác để thể
hiện ý chí của mình" [5].
Điều 969 quy định: "Di chúc có thể viết tay, lập công chứng thư hoặc
di chúc bí mật" [5].
Còn Bộ luật dân sự Nhật Bản quy định di chúc tuy có những đặc trưng
riêng, nhưng về cơ bản các quy định cũng tương tự như Bộ luật dân sự của
Cộng hòa Pháp.
Pháp luật dân sự của Cộng hòa Pháp và pháp luật dân sự Nhật Bản
còn có quy định hình thức của di chúc bí mật. Bản chất của di chúc bí mật
tương tự như di chúc được lập tại công chứng nhà nước ở nước ta, nhưng có
thủ tục chặt chẽ hơn (chúng tôi xin phân tích kỹ hơn ở phần hình thức của di
chúc).
1.2.2. Đặc điểm của di chúc
Di chúc có những đặc điểm riêng biệt so với các giao dịch dân sự khác
ở những điểm sau:
Trước hết, di chúc chính là sự thể hiện ý chí đơn phương của người
lập di chúc. Ý chí đơn phương này được thể hiện qua việc người lập di chúc
toàn quyền định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người khác sau
khi chết. Người lập di chúc không phải bàn bạc với bất kỳ ai trong việc định
đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình (trường hợp lập di chúc chung vợ
chồng thực chất thì vẫn là phần tài sản của ai thì người đó có quyền định
đoạt). Người lập di chúc không có nghĩa vụ phải trao đổi với những người
thừa kế về nội dung di chúc. Người lập di chúc phải tự nguyện, không bị đe
dọa, cưỡng ép trong việc lập di chúc. Di chúc thể hiện ý chí của người lập di
9
chúc, không bị sự chi phối nào của người khác. Bằng việc lập di chúc, người
để lại di sản đã xác lập một giao dịch dân sự về thừa kế theo di chúc.
Ý chí đơn phương của người lập di chúc còn được thể hiện việc người
lập di chúc toàn quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình cho bất kỳ ai
và có quyền cho ai bao nhiêu phần trăm số tài sản thuộc quyền sở hữu của
mình mà không phụ thuộc vào việc người được hưởng thừa kế theo di chúc có
quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng hay thân thích với người lập di chúc. Người
lập di chúc có thể cho người này nhiều, người kia ít, hoặc không cho người
nào đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
Như vậy, nếu như trong tất cả các loại hợp đồng dân sự đều phải thể
hiện ý chí của các bên tham gia hợp đồng và các bên đều phải tự nguyện thỏa
thuận, bàn bạc, trao đổi..., thì di chúc chỉ thể hiện ý chí của bên lập di chúc.
Hợp đồng dân sự chỉ phát sinh hiệu lực khi các bên tham gia hợp đồng thống
nhất được những điều khoản ghi nhận trong hợp đồng và cùng nhau ký kết
hợp đồng, còn trong di chúc thì không có sự thống nhất giữa người lập di
chúc và người được thừa kế theo di chúc. Thực tế đã có nhiều trường hợp
người được hưởng thừa kế theo di chúc không thể biết mình có quyền được
hưởng di sản theo di chúc vì di chúc chưa được công bố và được cất giữ bí
mật.
Đối với những di chúc do vợ chồng lập chung, trong đó mặc dù thể hiện
ý chí chung của hai người, nhưng thực chất vẫn thể hiện ý chí đơn phương của
từng người trong việc định đoạt tài sản chung (ý chí đơn phương của chồng
và vợ trùng nhau trong việc định đoạt tài sản chung vợ chồng). Mặt khác, di
chúc chung của vợ chồng vẫn chỉ thể hiện ý chí của một bên - bên chuyển
giao tài sản.
Ý chí đơn phương này là đặc điểm khác biệt của di chúc với các loại
giao dịch dân sự khác. Đây không phải chỉ riêng di chúc theo pháp luật dân sự
10
Việt Nam mà pháp luật dân sự của hầu hết các nước thì vấn đề này cũng được
quy định rõ như: Bộ luật dân sự của Cộng hòa Pháp, Đức…
Đặc điểm thứ hai: Di chúc thể hiện sự định đoạt tài sản của người lập di
chúc nhằm chuyển dịch tài sản cho người khác, sau khi người lập di chúc
chết.
Nếu như các loại hợp đồng dân sự đều thể hiện ý chí thỏa thuận của
các chủ thể nhằm chuyển dịch tài sản từ người này sang người khác thì di
chúc lại nhằm chuyển dịch tài sản của người đã chết sang cho người còn sống.
Người thừa kế theo di chúc phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
Thực tế cho thấy không phải bất cứ ai trước khi chết cũng lập di chúc,
mà có người trước khi chết họ chỉ để lại những lời dặn dò, ví dụ: Dặn dò các
con phải thương yêu nhau, phải cố gắng học tập, tránh xa các thói hư, tật xấu...
Với khái niệm về di chúc tại Điều 649 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 646
Bộ luật dân sự năm 2005) thì di chúc phải thể hiện việc chuyển dịch tài sản
của người lập di chúc cho người khác sau khi người lập di chúc chết. Vì vậy,
nếu như một tài liệu nào đó của người chết để lại mà không hàm chứa nội
dung chuyển tài sản cho người khác, thì không thể được coi là di chúc. Pháp
luật cho phép công dân có quyền định đoạt tài sản, trong đó có việc để lại di
sản thừa kế theo di chúc, nhưng pháp luật cũng chỉ công nhận khi di chúc của
công dân đó thỏa mãn những điều kiện nhất định. Trong thực tiễn đã có
không ít những di chúc không tuân theo những quy định của pháp luật về hình
thức và nội dung, dẫn tới di chúc không được công nhận hoặc chỉ được công
nhận một phần.
Đặc điểm thứ ba: Di chúc là một loại giao dịch dân sự đặc biệt, chỉ có
hiệu lực khi người lập di chúc chết.
11
Khoản 1 Điều 670 Bộ luật dân sự năm 1995 (khoản 1 Điều 667 Bộ
luật dân sự năm 2005) quy định: "Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm
mở thừa kế" [6], [7].
Về thời điểm mở thừa kế, Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự
năm 2005 quy định thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết.
Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết, thì thời điểm mở
thừa kế là ngày được xác định theo quy định của pháp luật.
Đây là một đặc điểm thể hiện rõ nét sự khác biệt giữa di chúc với các
loại giao dịch dân sự khác, ví dụ như hợp đồng dân sự có hiệu lực kể từ thời
điểm giao kết trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy
định khác, còn thời điểm có hiệu lực của di chúc lại phụ thuộc vào thời điểm
mà người lập di chúc chết hoặc thời điểm mà quyết định của Tòa án tuyên bố
người lập di chúc chết có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, việc xác định đúng thời
điểm mở thừa kế (thời điểm người lập di chúc chết) có ý nghĩa trong việc xác
định thời điểm có hiệu lực của di chúc. Mặt khác, xác định đúng thời điểm mở
thừa kế có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định di chúc nào là di chúc có hiệu
lực trong trường hợp một người có nhiều di chúc. Di chúc thể hiện ý chí đơn
phương của người lập di chúc và người lập di chúc có quyền thay đổi một phần
hoặc toàn bộ nội dung di chúc hay hủy bỏ di chúc. Sự thay đổi hay hủy bỏ di
chúc có thể được thể hiện dưới hình thức người đó lập di chúc mới ghi nhận về
việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc, nhưng cũng có thể bằng di chúc mới (mặc dù
không nói rằng thay đổi hay hủy bỏ di chúc) người lập di chúc định đoạt tài
sản mà nội dung định đoạt khác với di chúc đã viết trước đó. Việc đánh giá
hiệu lực của di chúc như vậy dựa theo quy định tại khoản 5 Điều 670 Bộ luật
dân sự năm 1995: "Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài
sản, thì chỉ có bản di chúc sau cùng mới có hiệu lực pháp luật" [6].
Tóm lại, khi người lập di chúc còn sống thì di chúc dù có phù hợp với
các quy định của pháp luật về hình thức và nội dung, thì di chúc cũng chưa
12