Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Buc tranh mua thu va tam trang cua do phu trong thu hung
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Đề bài: Bức tranh mùa thu và tâm trạng của Đỗ Phủ trong Thu hứng
Bài làm
Thơ Đỗ Phủ có nhiều bài tuyệt, hay, một trong số đó là Thu hứng. Đọc Thu
hứng, người ta vừa có thể ngắm bức tranh thu tuyệt đẹp, vừa chia sẻ được bao
tâm sự trong lòng thi nhân. Bài thơ tự nó chia thành hai phần. Bốn câu trước tả cảnh, trong cảnh đượm tình. Bốn câu sau thể hiện tình cảm thi nhân nơi đất khách trên nền phong cảnh ở
bốn câu trước. Bức tranh cảnh vật được bắt đầu từ sự đổi màu của rừng phong:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm
(Sương móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng cây phong)
Từ những hình ảnh mang tính biểu tượng trong thơ cổ Trung Quốc như ngọc lộ
(sương móc), phong thụ (cây phong), người đọc có thể hình dung mùa thu đã
đến trên đất Quỳ Châu này - nơi Đỗ Phủ đang cư ngụ. Hình ảnh sương móc, rừng phong còn gợi lên sự lạnh lẽo và nỗi buồn. Hai chữ điêu thương vừa miêu
tả rừng phong tàn tạ, vừa thể hiện nỗi buồn thương của con người. Trong từ
vựng Trung Quốc, thông thường người ta chỉ dùng “điêu tạ”, “diệu linh”, “điêu
lạc”, “điêu tàn”, chỉ với Đỗ Phủ mới có “điêu thương”. Rừng phong điêu tạ, lòng người bi thương” (PGS.TS. Nguyễn Thị Bích Hải). Trở lại nhan đề bài thơ, Thu hứng, tức là “cảm hứng mùa thu”. Ngay câu thơ đầu chúng ta đã bắt gặp
“hứng”, đó chính là nỗi buồn được gợi lên từ khung cảnh rừng phong tàn tạ;
lòng người buồn thương. Đến câu thơ thứ hai, thi nhân đưa cái nhìn ra xa, thu vào tầm mắt hình ảnh núi
Vu, kẽm Vu:
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm
(Núi Vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt)
Thiên Sông ngòi ở cuốn Thủy kinh chú đời Lục triều miêu tả: Suốt cả vùng
Tam giáp (Vu giáp, Cù Đường giáp, Tây Lăng giáp) dài bảy trăm dặm, núi liên
tiếp đôi bờ, tuyệt không có một chỗ trống. Vách đá điệp trùng che khuất cả bầu
trời, chẳng thấy cả ánh nắng lẫn ánh sáng trắng. Hai chữ tiêu sâm trong câu thơ
Đỗ Phụ đã lột tả được thần thái phong cảnh nơi đây. Sự hùng vĩ, hiểm trở của
núi Vu, kẽm Vu phai nhoà đi sau hơi thu tối tăm, ảm đạm. Hai câu thơ đầu tả
cảnh rừng núi tĩnh tại nhưng đượm tình thu. Nếu như hai câu đầu, hướng nhìn của thi nhân di chuyển từ rừng núi xuống
lòng sông (câu 3) và bao quát theo chiều rộng thì đến hai câu sau, hưởng nhìn
lại chuyển từ lòng sông lên vùng quan ải và quét theo chiều dọc. Cảnh sắc ở hai
câu này cũng không đẫm màu bi thương, tàn tạ nữa mà có phần hùng tráng, dữ
dội:
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng, Tái thượng phong vân tiếp địa âm. (Giữa dòng sông, sóng vọt lên tận lưng trời, Trên cửa ải, mây sà xuống giáp mặt đất âm u)
Sóng và mây vận động ngược chiều, lấp kín cả không gian, gây ấn tượng xao
động dữ dội và nghẹt thở. Cảnh hùng vĩ thật nhưng vẫn bị lấn át bởi cảm hứng
bi tráng vôn thường thấy trong thơ Đỗ Phủ. Không gian quan ải hợp với không
gian rừng núi bên trên mang đến người đọc cảm giác khá đậm nét về nỗi buồn
mà thi nhân dường như cố tình phong kín trong lời thơ.