Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự - Tập 9
PREMIUM
Số trang
231
Kích thước
1.6 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1171

Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự - Tập 9

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐINH VĂN QUẾ

CHÁNH TOÀ TOÀ HÌNH SỰ TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

BÌNH LUẬN KHOA HỌC

BỘ LUẬT HÌNH SỰ

PHẦN CÁC TỘI PHẠM

(TẬP IX)

CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN CÔNG CỘNG,

TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

(BÌNH LUẬN CHUYÊN SÂU)

NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LỜI GIỚI THIỆU

2

Bộ luật hình sự đã đƣợc Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12

năm 1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2000 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình

sự năm 1999). Đây là Bộ luật hình sự thay thế Bộ luật hình sự năm 1985 đã đƣợc sửa đổi, bổ

sung bốn lần vào các ngày 28-12-1989, ngày 12-8-1991, ngày 22-12-1992 và ngày 10-5-

1997.

Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh đang xuất bản bộ sách BÌNH LUẬN KHOA

HỌC BỘ LUẬT HÌNH SỰ, đƣợc thể hiện với nội dung Bình luận chuyên sâu. Hiện tại đã in

10 tập: 1 tập Phần chung và 9 tập Phần các tội phạm.

Tác giả của bộ sách là Thạc sĩ luật học Đinh Văn Quế, Chánh toà Toà hình sự Toà án

nhân dân tối cao; đã nhiều năm công tác trong ngành, có nhiều đề tài nghiên cứu khoa học,

tham gia giảng dạy, đã cho xuất bản nhiều tác phẩm về luật hình sự, đồng thời cũng là

ngƣời trực tiếp tham gia xét xử nhiều vụ án hình sự.

Xin trân trọng giới thiệu tập 9 (Phần các tội phạm) của Bộ sách trên và mong nhận

đƣợc sự đóng góp của bạn đọc.

NHÀ XUẤT BẢN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

PHẦN THỨ NHẤT

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM

AN TOÀN CÔNG CỘNG, TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

3

Bộ luật hình sự năm 1985 quy định các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công

cộng và trật tự quản lý hành chính cùng trong một chƣơng (Chƣơng VIII- Phần các tội

phạm), nhƣng cấu tạo thành ba mục khác nhau:

Mục A: Các tội xâm phạm an toàn công cộng;

Mục B: Các tội xâm phạm trật tự công cộng;

Mục C: Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính.

Nay Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội xâm phạm an toàn công cộng và các

tội xâm phạm trật tự công cộng cùng trong một chƣơng, nhƣng không cấu tạo thành các mục

A, B nhƣ Bộ luật hình sự năm 1985. Đây cũng là vấn đề trong quá trình soạn thảo có nhiều ý

kiến khác nhau về kỹ thuật lập pháp.

Có ý kiến cho rằng, lẽ ra khi tách chƣơng VIII - Phần các tội phạm Bộ luật hình sự

năm 1985 thành các chƣơng khác nhau, thì phải quy định làm ba chƣơng theo ba mục A,B,C.

Nhƣng nhà làm luật chỉ tách Mục C thành một chƣơng riêng, còn Mục A và Mục B vẫn quy

định trong cùng một chƣơng, nhƣng lại không cấu tạo thành các mục, nên việc xác định đâu

là tội xâm phạm an toàn công cộng, đâu là tội xâm phạm trật tự công cộng sẽ gặp khó khăn.

Tuy nhiên, căn cứ vào dấu hiệu của từng tội phạm chúng ta thấy: có tội chỉ vi phạm quy định

về an toàn giao thông1

, có tội chỉ xâm phạm an toàn công cộng, có tội chỉ xâm phạm trật tự

công cộng, nhƣng có tội vừa xâm phạm an toàn công cộng vừa xâm phạm trật tự công cộng,

nên việc tách bạch đâu là xâm phạm an toàn công cộng, đâu là xâm phạm trật tự công cộng

là vấn đề không đơn giản. Chính vì vậy mà nhà làm luật quy định các tội xâm phạm an toàn

công cộng và các tội xâm phạm trật tự công cộng trong cùng một chƣơng là có cơ sở. Tuy

nhiên, có ý kiến cho rằng, đối với các tội vi phạm về an toàn giao thông nhà làm luật nên quy

định riêng thành một chƣơng, vì đối với các tội phạm này có những đặc điểm tƣơng tự nhƣ

nhau và khác với các tội xâm phạm trật tự công cộng khác. Hy vọng rằng, khi có chủ trƣơng

sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự, ý kiến này sẽ đƣợc nhà làm luật quan tâm, xem xét.

Các tội các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng quy tại chƣơng XIX,

trừ các tội vi phạm quy định về an toàn giao thông (đã giới thiệu ở tập VII) thì còn lại hầu

hết có sửa đổi, bổ sung. Một số tội trƣớc đây quy định tại Mục B - Chƣơng một – Phần các

tội phạm Bộ luật hình sự năm 1985 nay đƣợc quy định tại Chƣơng XIX nhƣ: tội chiếm đoạt

máy bay, tàu thuỷ; tội điều khiển máy bay vi phạm các quy định về hàng không của nƣớc

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tội điều khiển phƣơng tiện hàng hải vi phạm các quy

định về hàng hải của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tội chế tạo, tàng trữ, vận

chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phƣơng tiện kỹ thuật

quân sự; tội phá huỷ công trình, phƣơng tiện quan trọng về an ninh quốc gia; tội chế tạo, tàng

trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ; tội chiếm đoạt, tàng

trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ; tội sản xuất,

tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc; tội truyền bá văn

hoá phẩm đồi trụy. Một số tội đựơc tách ra từ tội phạm khác để cấu tạo thành tội riêng nhƣ:

tội tổ chức đua xe trái phép; tội đua xe trái phép là tội phạm đƣợc tách từ tội gây rối trật tự

công cộng. Một số tội mới hoàn toàn nhƣ: tội tạo ra và lan truyền, phát tán các chƣơng trình

1 Các tội vi phạm quy định về an toàn giao thông đã đƣợc bình luận tại Tập VII.

4

vi-rút tin học; tội vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính

điện tử; tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính; tội vi phạm quy định về

sử dụng lao động trẻ em; tội vi phạm quy định về an toàn vận hành công trình điện; tội phá

thai trái phép; tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt

vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ; tội hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có.

So với các chƣơng khác thì Chƣơng XIX nhà làm luật quy định nhiều tội phạm nhất;

các tội phạm quy định trong chƣơng này cũng xâm phạm đến nhiều khách thể đƣợc chia

thành các nhóm; có trƣờng hợp một tội phạm xâm phạm đến nhiều khách thể khác nhau; hầu

hết các tội quy định trong chƣơng này là tội cấu thành vật chất, nhƣng cũng có một số tội do

yêu cầu phòng ngừa nên nhà làm luật vẫn quy định là tội có cấu thành hình thức; nhiều tội

phạm nhà làm luật quy định một số tình tiết là yếu tố định tội thuộc về nhân thân ngƣời

phạm tội nhƣ: đã bị xử phạt hành chính, đã bị kỷ luật, đã bị kết án… mà còn vi phạm; nhiều

tội phạm nhà làm luật quy định nhiều hành vi phạm tội khác nhau xâm phạm đến nhiều đối

tƣợng khác nhau trong cùng một cấu thành.

Hầu hết các tội trong chƣơng này, nhà làm luật đều bổ sung các tình tiết là yếu tố định

khung hình phạt.

So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Chƣơng XIX Bộ luật hình sự năm 1999 nhà làm

luật quy định nhiều hình phạt tiền là hình phạt chính hơn Bộ luật hình sự năm 1985. Nếu tính

cả các tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông thì có tới 29 trên tổng số 55 tội nhà

làm luật quy định hình phạt tiền là hình phạt chính; hầu hết các tội phạm trong chƣơng này

đều quy định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung; có 2 tội có hình phạt cao nhất là tử hình, đó

là: tội chiếm đoạt máy bay, tàu thuỷ và tội phá huỷ công trình, phƣơng tiện quan trọng về an

ninh quốc gia nhƣng thực tiễn xét xử tội chiếm đoạt máy bay, tàu thuỷ chƣa xảy ra nên hình

phạt tử hình cũng chƣa áp dụng, còn đối với tội phá huỷ công trình, phƣơng tiện quan trọng

về an ninh quốc gia tuy có xảy ra nhƣng chƣa có trƣờng hợp nào áp dụng hình phạt tử hình;

7 tội có hình phạt cao nhất là tù chung thân. Các tội phạm có mức hình phạt là tử hình và tù

chung thân đều là tội trƣớc đây quy định tại chƣơng “các tội xâm phạm an ninh quốc gia”.

Hầu hết các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng nhà làm luật đều quy

định hình phạt bổ sung đối với ngƣời phạm tội và đƣợc quy định ngay trong cùng một điều

luật.

PHẦN THỨ HAI

CÁC TỘI PHẠM CỤ THỂ

1. TỘI TỔ CHỨC ĐUA XE TRÁI PHÉP

5

Điều 206. Tội tổ chức đua xe trái phép

1. Ngƣời nào tổ chức trái phép việc đua xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn

động cơ, thì bị phạt tiền từ mƣời triệu đồng đến năm mƣơi triệu đồng, cải tạo không giam

giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trƣờng hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến

mƣời năm:

a) Tổ chức đua xe có quy mô lớn;

b) Tổ chức cá cƣợc;

c) Tổ chức việc chống lại ngƣời có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông

hoặc ngƣời có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép;

d) Tổ chức đua xe nơi tập trung đông dân cƣ;

đ) Tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phƣơng tiện đua;

e) Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản

của ngƣời khác;

g) Tái phạm về tội này hoặc tội đua xe trái phép.

3. Phạm tội trong trƣờng hợp tái phạm nguy hiểm hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng,

thì bị phạt tù từ bảy năm đến mƣời lăm năm.

4. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mƣời hai năm đến hai

mƣơi năm hoặc tù chung thân.

5. Ngƣời phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến ba mƣơi triệu đồng.

Định nghĩa: Tổ chức đua xe trái phép là hành vi cầm đầu, chỉ huy, cƣỡng bức, đe dọa,

rủ rê, lôi kéo ngƣời khác hoặc tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho ngƣời khác để họ

tham gia vào việc đua xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ trái phép.

Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định tội tổ chức đua xe trái phép. Điều này cũng

dẽ hiểu, vì trƣớc năm 1985 ở nƣớc ta chƣa có tình trạng đua xe trái phép, vào nhứng năm 90

tình trạng đua xe trái phép ở một số thành phố xảy ra khá phổ biến gây mất trật tự, an toàn

công cộng. Do yêu cầu đấu tranh phòng chống hành vi đua xe trái phép nên Bộ luật hình sự

năm 1999 đã bổ sung tội tổ chức đƣa xe trái phép và tội đua xe trái phép. Tuy nhiên, trƣớc

khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực, hành vi tổ chức đua xe trái phép và hành vi đua xe

trái phép không phải là không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, mà bị truy cứu trách nhiệm

hình sự về tội gây rối trật tự công cộng quy định tại Điều 198 Bộ luật hình sự năm 1985. Đây

cũng là lý do vì sao chúng tôi không xếp tội tổ chức đua xe trái phép và tội đua xe trái phép

là tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông, mặc dù khoản 6 Điều 8 Luật giao thông

đƣờng bộ có quy định cấm đua xe, tổ chức đua xe trái phép và 2 tội này cũng xâm phạm đến

an toàn giao thông đƣờng bộ.

A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

6

1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, chỉ cần ngƣời có năng lực

chịu trách nhiệm hình sự và đến một độ tuổi theo quy định của Bộ luật hình sự thì đều có thể

trở thành chủ thể của tội phạm này.

Ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên nhƣng chƣa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội

phạm này thuộc trƣờng hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 của điều luật; ngƣời

đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này không phân biệt thuộc

trƣờng hợp nào quy định tại điều luật.

2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm này vừa xâm phạm đến an toàn công cộng vừa xâm phạm đến

trật tự công cộng.

Xâm phạm an toàn công cộng là gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến tài sản,

tính mạng, sức khoẻ của con ngƣời ở nơi công cộng, làm cho mọi ngƣời hoang mang lo sợ.

Điều này thì ai cũng thấy, bất kể ở đâu khi đoàn xe đua đi qua ai cũng sợ hãi và không ít

trƣờng hợp do đua xe trái phép đã gây ra hậu quả chết ngƣời hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ

của con ngƣời.

Cùng với việc gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến tài sản, tính mạng, sức khoẻ

của con ngƣời thì hành vi tổ chức đua xe trái phép còn gây mất trật tự nơi công cộng, ảnh

hƣởng nghiêm trọng đến hoạt động bình thƣờng của cộng đồng, gây náo động nơi công

cộng, nhiều trƣờng hợp làm tắc nghẽn giao thông nhiều giờ.

Đối tƣợng tác động của tội phạm này chính là ngƣời đua xe, ngƣời cổ vũ đua xe chứ

không phải phƣơng tiện dùng để đua là ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ.

Đây là vấn đề về lý luận cũng còn ý kiến khác nhau, có ý kiến cho rằng con ngƣời không thể

là đối tƣợng tác động của bất cứ tội phạm nào, nhƣng cũng có ý kiến cho rằng con ngƣời

cũng là một vật thể, đều có thể trở thành đối tƣợng tác động của tội phạm mà ngƣời phạm tội

thông qua đó xâm phạm đến khách thể mà luật hình bảo vệ.

Đối với tội tổ chức đua xe trái phép nếu ngƣời phạm tội không tác động đến những

ngƣời đua xe, ngƣời cổ vũ đua xe thì cũng không xảy ra cuộc đua xe; không thể tổ chức đua

xe mà lại không tổ những ngƣời đua xe để đua xe trái phép.

3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm

a. Hành vi khách quan

7

Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi tổ chức. Hành vi tổ chức hoàn toàn

khác với khái niệm “phạm tội có tổ chức” là một hình thức đồng phạm của nhiều ngƣời cố ý

cùng thực hiện một tội phạm. Phạm tội có tổ chức là nói lên quy mô của một vụ án, còn tổ

chức với ý nghĩa là hành vi khách quan là hành vi do một hoặc một số ngƣời thực hiện nhƣ:

tổ chức làm một việc gì đó, tổ chức đi nghỉ mát, tổ chức một bữa tiệc liên hoan, tổ chức một

đêm ca nhạc, tổ chức một trận đá bóng giao hữu… và tổ chức đua xe. Hành vi tổ chức đua xe

trái phép, tuỳ thuộc vào tính chất, quy mô, mục đích mà ngƣời tổ chức có thể huy động lực

lƣợng, phƣơng tiện, tiền của để đạt mục đích đề ra.

Ngƣời phạm tội tổ chức đua xe trái phép, có thể thực hiện một trong các hành vi sau:

Khởi xƣớng ra việc đua xe; vạch kế hoạch đua xe; chỉ huy việc đua xe; cƣỡng bức, dụ

dỗ, mua chuộc, lôi kéo, kích động ngƣời khác đua xe; quyên góp tiền, cung cấp tiền, tài sản

cho ngƣời đua xe hoặc để làm giải thƣởng cho ngƣời đua xe; cung cấp xe cho ngƣời đua xe;

tổ chức canh gác, bảo vệ hoặc chống đối lại lực lƣợng làm nhiệm vụ; huy động, lôi kéo, mua

chuộc ngƣời khác cổ vũ cho cuộc đua.v.v…

Ngƣời phạm tội có thể thực hiện một hoặc một số hành vi nêu trên; nếu ngƣời phạm

tội chỉ thực hiện những hành vi không trực tiếp liên quan đến hành vi tổ chức đua xe trái

phép thì ngƣời phạm tội phải là ngƣời chịu sự chỉ huy của ngƣời khác và hành vi của ngƣời

này cùng với hành vi của ngƣời khác tạo nên một cuộc đua xe trái phép. Ví dụ: Dƣới sự chỉ

huy của Vũ Văn A, nên Nguyễn Quốc B đƣợc phân công canh gác nếu thấy Cảnh sát giao

thông thì điện thoại báo cho A biết, còn Bùi Quốc H đƣợc phân công rủ rê, lôi kéo một số

thanh niên ra đƣờng cổ vũ khi đoàn xe đua đi qua, còn Đặng Xuân Đ đƣợc phân công quyên

góp tiền để làm giải thƣởng cho cuộc đua; mỗi hành vi của từng ngƣời nếu tách riêng ra thì

không có thể tổ chức thành một cuộc đua xe trái phép nhƣng kết nối lại dƣới sự chỉ huy của

một ngƣời thì cuộc đua xe trái phép sẽ đƣợc thực hiện.

Tội phạm hoàn thành khi ngƣời phạm tội đã thực hiện hành vi tổ chức đua xe trái

phép, việc đua xe có xảy ra hay không không phải là dấu hiệu bắt buộc. Nếu đã tổ chức cuộc

đua nhƣng vì những lý do khách quan nên cuộc đua không thực hiện đƣợc thì cũng không vì

thế mà cho rằng hành vi tổ chức đua xe chƣa cấu thành tội phạm, mà ngƣời phạm tội chỉ có

thể đƣợc coi là phạm tội ở giai đoạn chƣa đạt. Tuy nhiên, nếu đã tổ chức đua xe trái phép

nhƣng trƣớc khi cuộc đua bắt đầu, không có cản trở khách quan nào khác mà ngƣời phạm tội

quyết định ngƣng cuộc đua lại và không tiến hành đua xe nữa thì đƣợc coi là tự nguyện nửa

chừng chấm dứt việc phạm tội và đƣợc miễn trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đua xe trái

phép3

.

b. Hậu quả

3 Xem “tự nguyện nửa chừng chấm dứt việc phạm tội”. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 phần chung. NXB T.p.

Hồ Chí Minh năm 2000. tr. 113.

8

Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Tuy nhiên, nếu hậu quả

xảy ra thì tuỳ trƣờng hợp, ngƣời phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản

2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật.

Hậu quả do hành vi tổ chức đua xe trái phép là những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ,

tài sản gây mất trật tự công cộng và những thiệt hại khác cho xã hội.

c. Các dấu hiệu khách quan khác

Hành vi tổ chức đua xe đƣợc coi là hành vi phạm tội khi hành vi tổ chức đó không

đƣợc cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền cho phép; nếu việc tổ chức đua xe đƣợc cơ quan Nhà

nƣớc có thẩm quyền cho phép thì không bị coi là tội phạm. Hiện nay ở nƣớc ta việc đua xe ô

tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ của các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền ít

đƣợc tổ chức, trừ một vài trƣờng hợp đƣợc tổ chức ở sân Phú Thọ – thành phố Hồ Chí Minh;

nƣớc ta cũng chƣa xây dựng đƣợc những trƣờng đua có quy mô và đủ tiêu chuẩn để tổ chức

những cuộc đua xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ. Do đó, hầu hết các

cuộc tổ chức đua xe hiện nay đều là trái phép.

Chỉ coi là hành vi phạm tội nếu tổ chức đua xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có

gắn động cơ trái phép, nếu tổ chức đua xe thô sơ nhƣ: xe đạp, xe xích lô thì không bị coi là

hành vi phạm tội này. Đây cũng là vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau; có ý kiến cho rằng nhà

làm luật không quy định hành vi tổ chức đua xe thô sơ trái phép là bỏ lọt một hành vi nguy

hiểm cho xã hội mà không đƣợc hình sự hoá, không phù hợp với tình hình thực tế trong xã

hội, có nhiều cuộc đua xe đạp, xe thô sơ trái phép gây mất trật tự công cộng. Tuy nhiên,

chúng tôi cho rằng, việc nhà làm luật không quy định hành vi tổ chức đua xe thô sơ trái phép

cũng nhƣ không quy định hành vi đua xe thô sơ trái phép là hành vi tội phạm là vì tính chất

nguy hiểm cho xã hội của hai loại hành vi này ít nguy hiểm hơn so với hành vi tổ chức đua

xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ. Mặt khác, nếu hành vi tổ chức đua xe

thô sơ trái phép cũng nhƣ hành vi đua xe thô sơ trái phép gây hậu quả nghiêm trọng thì tuỳ

trƣờng hợp ngƣời tổ chức và ngƣời đua xe trái phép sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội

gây rối trật từ công cộng. Do đó việc quy định các hành vi này thành một tội độc lập là

không cần thiết.

4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm

Ngƣời phạm tội tổ chức đua xe trái phép thực hiện hành vi phạm tội của mình là do cố

ý, tức là ngƣời phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là hành vi tổ chức đua xe trái phép,

thấy trƣớc hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc thấy trƣớc hậu quả

9

của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhƣng vẫn có ý thức để mặc cho hậu

quả xảy ra.4

B. CÁC TRƢỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

1. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 206 Bộ luật hình sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 206 Bộ luật hình sự, thì ngƣời phạm tội có thể bị phạt

tiền từ mƣời triệu đồng đến năm mƣơi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc

phạt tù từ một năm đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng.

Khi quyết định hình phạt đối với ngƣời phạm tội tổ chức đua xe trái phép theo khoản 1

Điều 206 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại

Chƣơng VII Bộ luật hình sự (từ Điều 45 đến Điều 54).5

(Nguyên tắc này chúng tôi sẽ không

nhắc lại khi phân tích đối với các tội phạm khác trong chƣơng này).

Nếu ngƣời phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự,

không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhƣng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể

đƣợc áp dụng hình phạt tiền hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc áp dụng dƣới một

năm tù, nhƣng không đƣợc dƣới ba tháng tù vì đối với hình phạt tù mức thấp nhất là ba

tháng. Nếu ngƣời phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự,

không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhƣng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị

phạt đến năm năm tù.

2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự

a. Tổ chức đua xe có quy mô lớn

Cho đến nay chƣa có giải thích hoặc hƣớng dẫn nhƣ thế nào là tổ chức đua xe trái

phép có quy mô lớn; thực tiễn xét xử cũng chƣa nhiều, nên việc xác định thế nào là tổ chức

đua xe có quy mô lớn là khó khăn. Tuy nhiên, nghiên cứu các tội phạm quy định trong Bộ

luật hình sự có tình tiết với quy mô lớn nhƣ tội tổ chức đánh bạc đã có hƣớng dẫn thì có thể

coi trƣờng hợp tổ chức đua xe trái phép có quy mô lớn là tổ chức cho từ 5 xe ôtô, 10 xe mô

tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ trở lên.

4

. Xem Đinh Văn Quế “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 – Phần chung” NXB Tp Hồ Chí Minh năm 2000. tr.70

(cô ý phạm tội )

5 Xem Đinh Văn Quế “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999-Phần chung” NXB Tp Hồ Chí Minh năm 2000. Tr.227-

235 (Căn cứ quyết định hình phạt )

10

Nếu tổ chức cho 3 xe ôtô, 5 xe mô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ trở

lên nhƣng chƣa tới 5 xe ôtô, 10 xe mô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ mà

có huy động, lôi kéo, mua chuộc từ 50 ngƣời trở lên cổ vũ cho cuộc đua.6

b. Tổ chức cá cƣợc

Cùng với việc tổ chức đua xe trái phép, ngƣời phạm tội có thể còn có hành vi tổ chức

cá cƣợc. Thực chất hành vi tổ chức cá cƣợc là hành vi tổ chức đánh bạc, nhƣng là đánh bạc

bằng hình thức đua xe. Cá cƣợc là đánh cuộc ăn tiền về việc thắng thua của những chiếc xe

đua; một số địa phƣơng gọi là “cá độ”.

Khi áp dụng tình tiết này cần chú ý:

- Chỉ ngƣời tổ chức đua xe trái phép mà tổ chức các cƣợc về việc thắng thua của cuộc

đua do mình tổ chức thì mới thuộc trƣờng hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 206 Bộ luật

hình sự; nếu không phải là ngƣời tổ chức đua xe trái phép mà là ngƣời khác tổ chức cá cƣợc

thì hành vi cá cƣợc này là hành vi tổ chức đánh bạc thuộc trƣờng hợp quy định tại Điều 249

Bộ luật hình sự. Ví dụ: A biết có cuộc đua xe do B tổ chức, nên đã tổ chức cho một số đối

tƣợng cá cƣợc, thì A phạm tội tổ chức đánh bạc, còn B chỉ phạm tội tổ chức đua xe trái phép.

- Ngƣời phạm tội nếu đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 2 Điều

206 Bộ luật hình sự thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đánh bạc theo

Điều 249 Bộ luật hình sự nữa, nhƣng đối với ngƣời tham gia cá cƣợc vẫn có thể bị truy cứu

trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc nếu có đủ dấu hiệu quy định tại Điều 248 Bộ luật hình

sự.

c. Tổ chức việc chống lại ngƣời có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông

hoặc ngƣời có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép.

Trƣờng hợp phạm tội này là trƣờng hợp ngƣời phạm tội vừa tổ chức đua xe, vừa tổ

chức việc chống lại ngƣời có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc ngƣời có

trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép. Nếu ngƣời phạm tội tổ chức đua xe không tổ chức

việc chống lại ngƣời có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc ngƣời có trách

nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép, mà hành vi chống lại ngƣời có trách nhiệm bảo đảm

trật tự an toàn giao thông hoặc chống lại ngƣời có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép

do ngƣời khác thực hiện thì ngƣời phạm tội không bị áp dụng điểm c khoản 2 Điều 206 Bộ

luật hình sự. Nếu có việc chống lại ngƣời có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông

hoặc ngƣời có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép do ngƣời khác thực hiện thì tuỳ

trƣờng hợp họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chống ngƣời thi hành công vụ. Vì

6 Do chưa có hướng dẫn chính thức, nên việc xác định nà y cũng như các tình tiết khác là yếu tố định khung hình phạt mà

tác giả nêu trong khi bình luận chỉ là ý kiến riêng của tác giả. Nếu sau nà y có hướng dẫn chính thức thì phải áp dụng theo

hướng dẫn chính thức đó.

11

vậy, khi xác định tình tiết này cần chú ý: không phải cứ có việc chống lại ngƣời có trách

nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc ngƣời có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái

phép là đã xác định ngƣời phạm tội thuộc trƣờng hợp quy định tại điểm c khoản 2 của điều

luật mà phải xác định ngƣời phạm tội có tổ chức việc chống lại ngƣời có trách nhiệm bảo

đảm trật tự an toàn giao thông hoặc ngƣời có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép

không hay ngƣời khác tổ chức hoặc việc chống lại ngƣời có trách nhiệm bảo đảm trật tự an

toàn giao thông hoặc ngƣời có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép chỉ là do ngƣời đua

xe hoặc ngƣời cổ vũ tự thực hiện. Nếu ngƣời đua xe trái phép hoặc ngƣời cổ vũ tự ý có hành

vi chống lại ngƣời có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc ngƣời có trách

nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép thì họ phải chịu trách nhiệm độc lập về hành vi chống

ngƣời thi hành công vụ.

Hành vi tổ chức việc chống lại ngƣời có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao

thông hoặc ngƣời có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép cũng tƣơng tự nhƣ hành vi tổ

chức đua xe trái phép hay tổ chức thực hiện một công việc nào khác, tức là ngƣời phạm tội

phải có hành vi cầm đầu, chỉ huy, cƣỡng bức, đe dọa, rủ rê, lôi kéo ngƣời khác hoặc tạo điều

kiện vật chất hoặc tinh thần cho ngƣời khác để họ tham gia vào việc chống lại ngƣời có trách

nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc ngƣời có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái

phép.

d. Tổ chức đua xe nơi tập trung đông dân cƣ

Nơi tập trung đông dân cƣ là nơi có đông dân cứ trú, sinh sống, làm việc nhƣ thị tứ, thị

trấn, thị xã, thành phố, các khu công nghiệp, khu nghỉ mát du lịch…

Cũng coi là nơi tập trung đông dân cƣ, nếu trong một không gian, thời gian nhất định

ở đó có tập trung đông ngƣời nhƣ: Sân vận động, nhà thi đấu, nơi tổ chức lễ hội, mít tinh,

biểu tình. Những nơi này bình thƣờng không có đông ngƣời nhƣng trong một không gian,

thời gian nhất định số ngƣời tập trung đến những nơi này đông đúc.

Không coi là tổ chức đua xe trái phép nơi tập trung đông dân cƣ, nếu ngƣời phạm tội

tổ chức đua xe trái phép đã lôi kéo đông ngƣời đứng hai bên đƣờng cổ vũ cho đoàn đua đi

qua mà đoạn đƣờng đua đó không phải nơi đông dân cƣ.

đ. Tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phƣơng tiện đua;

Các phƣơng tiện tham gia vào cuộc đua nhƣ: ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có

gắn động cơ là các phƣơng tiện đã đƣợc nhà sản xuất chế tạo theo một mấu thiết kế theo một

tiêu chuẩn kỹ thuật đƣợc phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền, bảo đảm độ an toàn cho

ngƣời điều khiển. Nói chung, việc tổ chức đua xe trái phép, ngƣời tổ chức không chủ trƣơng

tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phƣơng tiện, mà việc tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi

phƣơng tiện lại do chính ngƣời đua xe thực hiện. Dù ngƣời phạm tội tổ chức đua xe có chủ

12

trƣơng hay không có chủ trƣơng tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phƣơng tiện nhƣng ngƣời

đua xe có hành vi tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phƣơng tiện đua thì ngƣời tổ chức đua xe

trái phép vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự,

vì điều luật chỉ quy định tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phƣơng tiện đua mà không quy

định tổ chức tháo dỡ.

Tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phƣơng tiện đua là hành vi tháo bỏ hoặc thay đổi cấu

trúc các bộ phận của phƣơng tiện nhƣ: tháo bỏ phanh (thắng), tháo bỏ ống bô, xoáy xi￾lanh… Do tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phƣơng tiện nên tính chất của hành vi tổ chức

đua xe trái phép nguy hiểm hơn, tiềm ẩn những hậu quả nguy hiểm cao hơn.

e. Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản

của ngƣời khác

- Gây thiệt hại cho tính mạng

Ngƣời tổ chức đua xe trái phép dẫn đến thiệt hại cho tính mạng của ngƣời khác là gây

thiệt hại đến tính mạng cho ngƣời đua xe và ngƣời không tham gia đua xe (có thể là ngƣời đi

đƣờng, ngƣời cổ vũ hoặc ngƣời khác).

Ngƣời bị thiệt hại đến tính mạng có thể là do đua xe gây ra, nhƣng cũng có thể do

nguyên nhân khác nhƣng phải do hành vi tổ chức đua xe gây ra nhƣ: do tổ chức đua xe nên

có việc cá cƣợc và vì cay cú đƣợc thua nên dẫn đến gây án mạng.

- Gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ của ngƣời khác

Gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ của ngƣời khác là do hành vi tổ chức đua xe

trái phép mà gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ ngƣời khác có tỷ lệ thƣơng tật là

từ 31% trở lên. Có thể gây ra cho một ngƣời và có thể gây ra cho nhiều ngƣời. Nếu gây ra

cho nhiều ngƣời mà tổng tỷ lệ thƣơng tật của mỗi ngƣời chƣa đến 31% nhƣng tổng tỷ lệ

thƣơng tật của nhiều ngƣời từ 31% trở lên thì cũng coi là gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức

khoẻ của ngƣời khác.

- Gây thiệt hại nghiêm trọng cho tài sản của ngƣời khác

Gây thiệt hại nghiêm trọng cho tài sản của ngƣời khác là trƣờng hợp do tổ chức

đua xe trái phép mà gây thiệt hại về tài sản cho ngƣời tham gia đua hoặc của ngƣời

khác có giá trị từ 50 triệu đồng đến dƣới 500 triệu đồng. Nếu gây thiệt hại trên 500

triệu đồng thì phải coi là trƣờng hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng quy định tại điểm b

khoản 3 Điều 206 Bộ luật hình sự.

13

Khi áp dụng tình tiết quy định tại điểm e khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự đối

với ngƣời phạm tội cần chú ý:

- Ngƣời khác quy định ở đây không phải là ngƣời tổ chức đua xe (ngƣời phạm

tội), họ chỉ có thể là tham gia đua xe, ngƣời cổ vũ đua xe, ngƣời đi đƣờng hoặc ngƣời

khác.

- Nếu ngƣời tổ chức đua xe lại cùng tham gia đua xe thì những thiệt hại về tính

mạng, sức khoẻ hoặc tài sản gây ra cho chính họ thì không tính để xác định tình tiết là yếu tố

định khung hình phạt đối với ngƣời phạm tội.

g. Tái phạm về tội này hoặc tội đua xe trái phép.

Tái phạm về tội này là trƣờng hợp đã bị kết án về tội tổ chức đua xe trái phép, chƣa

đƣợc xoá án tích mà lại phạm tội tổ chức đua xe trái phép.

Tái phạm về tội đua xe trái phép là trƣờng hợp đã bị kết án về tội đua xe trái phép,

chƣa đƣợc xoá án tích mà lại phạm tội tổ chức đua xe trái phép.

Khi áp dụng tình tiết tái phạm về tội đua xe trái phép cũng cần chú ý: điều luật chỉ quy

định “tái phạm về tội đua xe trái phép” mà không quy định “tái phạm về hành vi đua xe trái

phép” nên đối với trƣờng hợp một ngƣời tuy có hành vi đua xe trái phép nhƣng lại bị kết án

về tội gây rối trật tự công cộng thì không coi là tái phạm về tội đua xe trái phép. Ví dụ: A, B,

C và D đều có hành vi đua xe trái phép nhƣng chỉ có A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội

đua xe trái phép vì A đã bị đã bị xử phạt hành chính về hành vi này, còn B, C và D vì chƣa bị

xử phạt hành chính về hành vi này cũng chƣa bị kết án về tội này nên chỉ bị truy cứu trách

nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng. Sau khi bị kết án về tội gây rối trật tự công

cộng, B lại phạm tội tổ chức đua xe trái phép thì B không bị coi là tái phạm về tội đua xe trái

phép.

Phạm tội thuộc trƣờng hợp quy định tại khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự, ngƣời

phạm tội có thể bị phạt tù từ ba năm đến mƣời năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.

Nếu chỉ thuộc một trƣờng hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết

giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có

nhƣng mức độ tăng nặng không đáng kể, phạm tội thuộc một trƣờng hợp quy định tại khoản

2 của điều luật thì Toà án có thể đƣợc áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dƣới ba năm tù.

Nếu tập trung nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết

tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có

nhƣng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, phạm tội thuộc nhiều trƣờng hợp quy định tại khoản

2 điều luật thì có thể bị phạt đến mƣời năm tù.

14

3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 206 Bộ luật hình sự

a. Tái phạm nguy hiểm

Tái phạm nguy hiểm là trƣờng hợp đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt

nghiêm trọng do cố ý, chƣa đƣợc xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội dặc biệt

nghiêm trọng do cố ý, hoặc tái phạm, chƣa đƣợc xoá án tích mà lại phạm tội tổ chức đua xe

trái phép.

Khi các định tình tiết tái phạm guy hiểm đối với ngƣời phạm tội tổ chức đua xe trái

phép cần chú ý:

- Điều luật không quy định tái phạm nguy hiểm về tội này hoặc tội đua xe trái phép

nên chỉ cần trƣớc khi ngƣời phạm tội tổ chức đua xe trái phép họ đã bị kết án về tội rất

nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý (không phân biệt đó là tội phạm nào),

chƣa đƣợc xoá án tích mà lại phạm tội tổ chức đua xe trái phép thuộc trƣờng hợp quy định

tại khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự (khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự là tội phạm rất

nghiêm trọng).

- Ngƣời phạm tội cũng có thể đã bị kết án về tội tổ chức đua xe trái phép thuộc trƣờng

hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 206 Bộ luật hình sự hoăc hoăc tội đua

xe trái phép thuộc trƣờng hợp quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 207 Bộ luật hình sự

nhƣng chƣa đƣợc xoá án tích mà lại phạm tội tổ chức đua xe trái phép thuộc trƣờng hợp quy

định tại khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự. Nếu ngƣời phạm tội thuộc trƣờng hợp tái phạm

nguy hiểm thì không coi là trƣờng hợp “đã tái phạm tội này hoặc tội đua xe trái phép” quy

định tại điểm g khoản 2 Điều 206 Bộ luật hình sự nữa. Tuy nhiên, tái phạm nguy hiểm về tội

tổ chức đua xe trái phép hoặc tội đua xe trái phép thì tính chất, mức độ nguy hiểm cao hơn

trƣờng hợp tái phạm nguy hiểm khác.

- Ngƣời phạm tội đã tái phạm (không phân biệt đã tái phạm tội phạm nào), chƣa đƣợc

xoá án tích mà lại phạm tội tổ chức đua xe trái phép (không phân biệt thuộc trƣờng hợp quy

định tại khoản nào của điều luật). Nếu tái phạm tội tổ chức đua xe trái phép hoặc tội đua xe

trái phép chƣa đƣợc xoá án tích mà lại phạm tội tổ chức đua xe trái phép thì tính chất, mức

độ nguy hiểm cao hơn.

b. Gây hậu quả rất nghiêm trọng

Gây hậu quả rất nghiêm trọng là gây ra những thiệt hại rất lớn cho tính mạng, sức

khoẻ, tài sản, và những thiệt hại khác cho xã hội.

15

Cho đến nay chƣa có giải thích hoặc hƣớng dẫn chính thức thế nào là gây hậu quả rất

nghiêm trọng do hành vi tổ chức đua xe trái phép gây ra. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất,

mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm này, tham khảo hƣớng dẫn về tình tiết gây hậu

quả rất nghiêm trọng đối với một số tội phạm khác thì có thể coi hành vi tổ chức đua xe trái

phép gây ra hậu quả rất nghiêm trọng nếu:

- Làm chết hai ngƣời;

- Làm chết một ngƣời và còn gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai ngƣời với tỷ lệ

thƣơng tật của mỗi ngƣời từ 31% trở lên

- Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn ngƣời với tỷ lệ thƣơng tật của mỗi ngƣời từ

31% trở lên;

- Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều ngƣời với tổng tỷ lệ thƣơng tật của tất cả những

ngƣời này từ 200% trở lên;

- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dƣới một tỷ năm trăm

triệu đồng.

Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản đƣợc hƣớng dẫn trên đây, thực

tiễn cho thấy có thể còn có thiệt hại phi vật chất nhƣ có ảnh hƣởng xấu đến an ninh, trật tự, an

toàn xã hội...thì phải tuỳ vào từng trƣờng hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do

hành vi tổ chức đua xe trái phép gây ra có phải là rất nghiêm trọng hay không.

Phạm tội thuộc trƣờng hợp quy định tại khoản 3 Điều 206 Bộ luật hình sự, ngƣời

phạm tội có thể bị phạt tù từ bảy năm đến mƣời lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.

Nếu chỉ thuộc một trƣờng hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, không có nhiều tình

tiết quy định tại khoản 2 của điều luật và ngƣời phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy

định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhƣng mức độ

tăng nặng không đáng kể, thì có thể đƣợc áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dƣới bảy

năm tù nhƣng không đƣợc dƣới ba năm.

Nếu thuộc cả hai trƣờng hợp quy định tại khoản 3 của điều luật hoặc tuy tuy chỉ

thuộc một trƣờng hợp quy định tại khoản 3 của điều luật nhƣng còn tập trung nhiều tình tiết

quy định tại khoản 2 của điều luật và ngƣời phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại

Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhƣng mức độ giảm nhẹ

không đáng kể, phạm tội thuộc cả hai trƣờng hợp quy định tại khoản 3 điều luật thì có thể bị

phạt đến mƣời lăm năm tù.

4. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 206 Bộ luật hình sự

Khoản 4 của điều luật chỉ quy định một tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, đó là

“gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!