Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Biện pháp dẫn giải theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
TỪ CHÍ DŨNG
BIỆN PHÁP DẪN GIẢI
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
BIỆN PHÁP DẪN GIẢI
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
định hướng ứng dụng
Mã số: 60380104
Người hướng dẫn khoa học: Ts. Võ Thị Kim Oanh
Học viên: Từ Chí Dũng
Lớp: Cao học Luật, khóa 1, Sóc Trăng
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ “Biện pháp dẫn giải theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam” là công trình nghiên cứu của bản thân, được xuất phát
từ yêu cầu phát sinh trong công việc để hình thành hướng nghiên cứu. Các số
liệu có nguồn gốc rõ ràng tuân thủ đúng nguyên tắc và kết quả trình bày trong
luận văn được thu thập trong quá trình nghiên cứu là trung thực. Nếu phát hiện
có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả luận văn
Từ Chí Dũng
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TTHS : tố tụng hình sự
BLHS : Bộ luật hình sự
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................1
CHƯƠNG 1. ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP DẪN GIẢI...................5
1.1. Quy định của pháp luật về đối tượng áp dụng biện pháp dẫn giải.......5
1.2. Thực tiễn áp dụng và vướng mắc về đối tượng áp dụng biện pháp dẫn
giải ....................................................................................................................11
1.2.1. Thực tiễn áp dụng ...............................................................................11
1.2.2. Vướng mắc về đối tượng áp dụng biện pháp dẫn giải........................14
1.3. Giải pháp hoàn thiện về đối tượng áp dụng biện pháp dẫn giải ............18
Kết luận Chương 1 .............................................................................................20
CHƯƠNG 2. CĂN CỨ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP DẪN GIẢI.........................21
2.1. Quy định của pháp luật về căn cứ áp dụng biện pháp dẫn giải..........21
2.2. Thực tiễn áp dụng và vướng mắc về căn cứ áp dụng biện pháp dẫn
giải ....................................................................................................................25
2.2.1. Thực tiễn áp dụng ...............................................................................25
2.2.2. Vướng mắc về căn cứ áp dụng biện pháp dẫn giải.............................26
2.3. Giải pháp hoàn thiện về căn cứ áp dụng biện pháp dẫn giải ..............33
Kết luận Chương 2 .............................................................................................37
KẾT LUẬN.........................................................................................................38
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Qua thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời gian qua trên cả
nước cho thấy tình hình tội phạm diễn ra ngày càng phổ biến phức tạp, đòi hỏi
phải đặt ra những yêu cầu mới cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung và việc áp dụng biện pháp cưỡng chế nói riêng trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự. Công tác đấu tranh đã đem lại nhiều kết quả tốt, kinh nghiệm hay
cần được tổng kết bổ sung cho lý luận để nhân rộng, nhưng bên cạnh đó vẫn còn
nhiều tồn tại, thiếu sót ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả điều tra, truy tố, xét xử
và xâm phạm đến các quyền cơ bản của công dân, gây dư luận xấu trong nhân
dân ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước. Để rút ra những kinh nghiệm hay
từ thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm và khắc phục những hạn chế trong
lý luận góp phần thực hiện tốt việc áp dụng biện pháp cưỡng chế trong các giai
đoạn tố tụng trong thời gian tới. Việc nghiên cứu vấn đề áp dụng biện pháp dẫn
giải trong Luật tố tụng hình sự để hệ thống về mặt lý luận, đánh giá một cách
toàn diện, chính xác, khách quan về thực tiễn áp dụng trong giai đoạn hiện nay là
rất cần thiết. Với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc hoàn
thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp cưỡng chế trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự, bản thân tôi chọn đề tài "Biện pháp dẫn giải theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam" làm luận văn Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua tìm hiểu, tác giả nhận thấy chưa có nhiều luận án, luận văn, khóa luận
tốt nghiệp và công trình nghiên cứu khoa học nào viết về đề tài “Biện pháp dẫn
giải theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, vì vậy tính mới của đề tài là rất cao.
Qua thời gian nghiên cứu, cập nhật gần đây thì tác giả Đỗ Hoàng Huy vừa mới
bảo vệ thành công đề tài “Biện pháp áp giải, dẫn giải trong luật tố tụng hình sự
Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh (tháng 6/2017) theo định hướng nghiên cứu. Tuy nhiên, ở đề tài này tác giả
Đỗ Hoàng Huy chỉ đi sâu vào định hướng nghiên cứu, chưa đi sâu vào vấn đề áp
dụng trong thực tiễn. Do vậy, để có lượng kiến thức nhất định, ngoài việc nghiên
cứu các quy định của pháp luật hiện hành, nghiên cứu các báo cáo, tổng kết kinh
2
nghiệm, trao đổi với các Điều tra viên, Cảnh sát viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán…và thông qua các luận văn có liên quan, các tạp chí, các Website, cơ sở
dữ liệu chuyên ngành để tác giả tập hợp một số bài viết có liên quan đến nội
dung nghiên cứu của đề tài như: Nguyễn Vạn Nguyên (1990), “Các biện pháp
cưỡng chế tố tụng hình sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật - Viện Nhà nước và
Pháp luật; Mai Thế Bày (2009), “Cần sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự
về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc phê chuẩn các lệnh, quyết
định áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế tố tụng khác trong
giai đoạn điều tra”, Tạp chí Kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Bùi Kiên
Điện (2010), “Vấn đề cưỡng chế tố tụng hình sự và nguyên tắc nhân đạo”, Tạp
chí Luật học - Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Ngọc Khánh (2011), “Thẩm quyền
của Viện kiểm sát trong việc quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và các
biện pháp cưỡng chế tố tụng khác trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách
tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; Trần Minh Nguyệt
(2015), “Hoàn thiện cơ sở pháp lý về thực hiện biện pháp dẫn giải người vi phạm
theo thủ tục hành chính thuộc chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của bộ đội biên
phòng”, Tạp chí Luật học - Đại học Luật Hà Nội; Đinh Văn Đoàn (2015), “Bình
luận dự thảo Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi liên quan đến một số biện pháp
cưỡng chế trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, Kỷ yếu hội thảo - Trường
Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh; Lê Huỳnh Tấn Duy (2016), “Một số nội dung sửa
đổi, bổ sung cơ bản trong Phần thứ nhất "Những quy định chung" của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Khoa học pháp lý - Trường Đại học Luật Tp.
Hồ Chí Minh; Hoàng Anh Tuyên (2016), “Những nội dung mới cơ bản về các
biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015”, Tạp chí Kiểm sát - Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao... Các bài viết này đã
cung cấp rất nhiều thông tin bổ ích, để từ đó tác giả có thêm cơ sở lý luận và
thực tiễn phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật
về biện pháp cưỡng chế cũng như thực tiễn áp dụng biện pháp dẫn giải trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự, bản thân mong muốn đưa ra những giải pháp
nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện
pháp dẫn giải để phù hợp với yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội
3
phạm của nước ta trong tình hình hiện nay và đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
với những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể nhằm từng bước hoàn thiện nền tư pháp,
đáp ứng được các yêu cầu trong việc đảm bảo quyền con người, quyền tự do,
dân chủ của Nhân dân đã được nhấn mạnh trong các Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005, Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính
trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng biện pháp
dẫn giải trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự để đánh giá thực trạng cũng
như những bất cập của pháp luật hiện hành, đồng thời đưa ra những giải pháp
góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp cưỡng chế dẫn giải.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích này thì luận văn có nhiệm vụ sau, nêu
lên các quy định của pháp luật về biện pháp dẫn giải, đánh giá thực trạng, vướng
mắc trong thời gian qua, từ đó đưa ra giải pháp để hoàn thiện.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu căn cứ áp dụng và đối tượng áp
dụng biện pháp dẫn giải theo luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu ở pháp luật
tố tụng Việt Nam cụ thể là Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, từ đó đối chiếu với
thực tiễn áp dụng biện pháp dẫn giải trong việc giải quyết các vụ án hình sự ở
Việt Nam. Tuy nhiên, trong phạm vi của luận văn này chỉ đi sâu nghiên cứu
những nội dung có nhiều vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật về căn cứ
áp dụng và đối tượng áp dụng biện pháp dẫn giải theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam, từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định về biện pháp
dẫn giải do các cơ quan và người tiến hành tố tụng áp dụng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn tác giả áp dụng phương pháp phân tích
luật, đánh giá các quy định của Bộ luật TTHS (tố tụng hình sự), các quan điểm
4
của Đảng và Nhà Nước về cải cách tư pháp, các văn bản hướng dẫn dưới luật.
Ngoài ra trong luận văn tác giả còn sử dụng các phương pháp thông thường như
phương pháp phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp để hoàn thành luận văn
của mình.
6. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng các kết quả
nghiên cứu
Dự kiến kết quả nghiên cứu: Đề tài góp phần hoàn thiện những nội dung
liên quan đến việc quy định biện pháp cưỡng chế dẫn giải được quy định trong
Bộ luật TTHS năm 2015; Liên ngành Tư pháp Trung ương cần có văn bản
hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự thống nhất.
Địa chỉ ứng dụng: Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp cho cán bộ tư pháp
mà đặc biệt là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán.... vận dụng chính xác
khi thực hiện nhiệm vụ. Ngoài ra, còn có thể sử dụng kết quả nghiên cứu đề tài
để tham khảo, sử dụng trong việc giảng dạy pháp luật nói chung và hướng dẫn
tập huấn nghiệp vụ nói riêng.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục các tài liệu tham khảo, luận
văn gồm có 02 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Đối tượng áp dụng biện pháp dẫn giải
Chương 2: Căn cứ áp dụng biện pháp dẫn giải
5
CHƯƠNG 1
ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP DẪN GIẢI
1.1. Quy định của pháp luật về đối tượng áp dụng biện pháp dẫn giải
Theo Đại từ điển tiếng Việt: “dẫn giải là di chuyển có giám sát”1
, từ đó
dẫn giải người làm chứng được hiểu là việc tiến hành giám sát, buộc người làm
chứng đến nơi quy định.
Theo tác giả Trần Quang Tiệp thì “Dẫn giải người làm chứng là biện pháp
cưỡng chế tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng,
giám sát, buộc người làm chứng đến Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
theo giấy triệu tập nhằm đảm bảo cho việc tiến hành hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án”2
.
Đối tượng áp dụng của một văn bản được hiểu là giới hạn những “ai”
được/phải thực hiện theo văn bản này. Những “ai” ở đây chỉ có thể là cá nhân.
Nên đối tượng phải thực hiện theo văn bản chỉ có thể là cá nhân. Do vậy, đối
tượng áp dụng dẫn giải chỉ có thể là cá nhân, nhưng cá nhân đó là người tham
gia tố tụng hay là người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì phải dựa vào điều
luật quy định cụ thể.
Đối tượng áp dụng là một trong những tiêu chí đầu tiên để xác định người
đó có bị điều chỉnh bởi biện pháp cưỡng chế hay không? Bộ luật TTHS năm
2003 quy định biện pháp dẫn giải chỉ áp dụng đối với một đối tượng duy nhất đó
là người làm chứng, tuy nhiên không phải người làm chứng nào cũng chịu sự
điều chỉnh của biện pháp dẫn giải mà chỉ “Người làm chứng đã được Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án triệu tập nhưng cố ý không đến mà không có lý
do chính đáng và việc họ vắng mặt gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử
thì có thể bị dẫn giải” và được quy định rãi rác tại các điều luật của Bộ luật
TTHS năm 2003, như sau: “Người làm chứng có nghĩa vụ: Có mặt theo giấy
triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; trong trường hợp cố ý
không đến mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại
1 Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, tr.521.
2 Trần Quang Tiệp (2011), Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, NXB Chính trị Quốc
gia, Tp. Hồ Chí Minh, tr 221.