Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Bí quyết các phép đánh quyền đao thương
PREMIUM
Số trang
76
Kích thước
1.3 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1891

Bí quyết các phép đánh quyền đao thương

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

www.ketnoibanbe.org

BÍ TRUYỀN CÁC PHÉP ĐÁNH

QUYỀN ĐAO THƯƠNG

Võ sư Vạn Lại Thanh

Môn Phái VY ĐÀ (THIẾU LÂM)

Bản dịch của Tương Quân

Nhà Xuất Bản Hương Giang - Việt Nam

Sàigòn 1970

o O o

Khái lược về quyền pháp

Quyền là phương tiện tấn công có sức mạnh nhất, luyện tập

cũng dễ dàng nhất mà hiệu dụng cũng rộng rãi nhất, bất luận là

ở đẳng cấp bộ pháp nào cũng có thể dùng được.

Tùy theo đặc tính, căn bản quyền thuật được phân làm 6 loại là

Bình bộ quyền, Thuận bộ quyền, Hoán bộ quyền, Tam giác

quyền, Khổ não quyền, và Xung quyền, mà pháp diễn quyền xin

thuật như sau :

BÌNH BỘ QUYỀN

Bình bộ quyền là ở bình bộ mà xuất quyền. Xuất tả quyền gọi là

Tả Bình bộ quyền, xuất hữu quyền gọi là Hữu Bình bộ quyền.

Khi xuất tả quyền thì phóng thẳng cánh tay trái ra (hoặc về phía

trước, hoặc về một bên). Quyền xuất ra ngang với vai, đó là thế

tấn công. Cánh tay trái co lại trước bụng, nắm tay trái để ngang

trước ngực, đó là thế phòng vệ. Xuất hữu quyền thì trái lại,

nghĩa là cánh tay phải xuất quyền còn cách tay trái phòng vệ.

Hai chân đứng ngang bằng, vững chãi. Bình bộ quyền có ưu

điểm cả về công lẫn thủ, quả là loại chủ yếu trong quyền thuật.

THUẬN BỘ QUYỀN

Thuận bộ quyền là thuận bước mà xuất quyền, tức là một loại

Bình bộ quyền di động. Thuận bước mà xuất quyền nghĩa là khi

xuất hữu quyền thì chân phải đồng thời bước tới trước, hữu

quyền phóng thẳng tới trước, cánh tay trái co lại trước bụng để

phòng vệ như ở Bình bộ quyền. Còn xuất tả quyền thì làm trái

lại, nghĩa là tay phải thì chân phải, tay trái thì chân trái, như vậy

gọi là thuận bộ.

HOÁN BỘ QUYỀN

Trong hoán bộ quyền hễ xuất hữu quyền thì chân trái ở trước,

xuất tả quyền thì chân phải ở trước, còn động tác xuất quyền thì

cứ một tay xuất quyền, một tay phòng vệ thế cách cũng giống

như đã nói ở trên. Những phép trên đây, nếu chịu khó luyện tập

lâu dài, sẽ khiến sức của cánh tay ngày càng mạnh, quyền xuất

ra ngày càng nhanh, sức phòng vệ ngày càng vững, mà các bộ

phận của thân thề như ngực, bụng, vai, lưng ngày càng được nở

nang dắn chắc

TAM GIÁC QUYỀN

Tam giác quyền là căn cứ vào hình thể diễn quyền giống hình

tam giác mà đặt tên. Có hai cách nắm tay, hoặc khi nắm tay lại,

ngón tay giữa cong chặt và nhô cao, có ngón áp út kềm giúp,

hoặc là các ngón tay nắm thật chặt, từ ngón trỏ tới ngón út, các

mấu xương ngón tay tạo thành các góc để có thể đả thương,

nhất là tại các huyệt đạo của đối phương. Khi diễn tam giác

quyền, người võ sinh không cần câu nệ về bộ pháp, dù ở thế

đứng nào cũng có thể chứng tỏ hiệu lực, cũng vì thế mà các nhà

quyền thuật thích luyện loại này.

KHỔ NÃO QUYỀN

Trong Khổ não quyền, người ta dùng cườm tay làm quyền, cách

luyện tập rất khó khăn công phu, vì thế có tên là Khổ não

quyền. Phương tiện tấn công cũng như phòng vệ là ở những

mấu xương từ khuỷu tay, cườm tay tới mu bàn tay. Tập luyện

cho linh hoạt thì xuất thủ theo ý mình, lực đánh ra mạnh mà lực

phòng vệ cũng vững, ứng dụng rất rộng rãi, lại cũng giống như

Tam giác quyền, nghĩa là không câu nệ bộ pháp.

XUNG QUYỀN

Xung quyền gồm hai loại là Xung thiên quyền và Xung địa

quyền. Xung thiên quyền còn có tên là Phật đỉnh châu. Trong

Xung thiên quyền, một bắp tay dựng thẳng, quyền hướng lên

phía trên, cánh tay kia co lại trước bụng, hoặc xích qua che chở

bên sườn, phía cánh tay dựng đứng để làm nhiệm vụ phòng vệ

chỗ hở. Bộ pháp thì thường dùng bình bộ và và giác bộ chứ ít

dùng đằng bộ hay hoạt bộ. Thế quyền này nhằm đánh vào dưới

cằm đối phương, mà lại có thể chế ngự sự tấn công thình lình

của đối phương. Xung địa quyền thì quyền đánh từ trên xuống

dưới hoặc đánh vào sống đùi đối phương, hoặc đánh đối phương

khi đối phương đã ngã xuống. Bộ pháp áp dụng thì hơi giống

bình bộ, chỉ khác là ở bình bộ thì thân mình hơi thẳng lên, còn

khi xuất Xung địa quyền, thì thân người hơi thấp xuống.

Khái lược về chưởng pháp

Trong quyền thuật, đòn đánh ra mau lẹ nhất, chính xác nhất, có

sức mạnh nhất mà lại biến hóa khó lường nhất. chính là ở chỗ

xuất chưởng. Chưởng đánh ra thì bàn tay chìa thẳng, các ngón

tay khít chặt với nhau, lực tụ lại ở cườm tay, rồi tùy thời mà vận

dụng. Những thế như Trảm, Thoát, Phách, Lạc, chẳng qua chỉ do

vị trí trên dưới tả hữu mà phân biệt ra. Còn những thế như

Thân, Xúc, Thiêu, Đái, Hoán, Liêu, Đáp, cho tới Nại, Thác, Phân

cũng chỉ là nói về vận động của cườm tay trong khoảng chừng

một tấc vuông và trong nháy mắt. Cho nên chưởng pháp biến ảo

khó đoán, thần diệu khó nói thường là sau quyền pháp thì

nghiên cứu tới chưởng pháp. Chưởng pháp gồm các loại Đơn

chưởng, Song chưởng, Hoành chưởng, Thụ chưởng, Thượng chỉ

chưởng, Hạ sáp chưởng và Phụng huyệt chưởng. Xin nói đại khái

như sau :

ĐƠN CHƯỞNG

Đơn chưởng là một tay phóng ra, bàn tay không nắm lại mà các

ngón tay duỗi thẳng khít chặt vào nhau, cạnh bàn tay sẽ dùng

vào các thế Trảm, Kích, Phách. Bất luận các bộ pháp liên tiếp

nhau thế nào, bất luận đang dùng quyền pháp nào, đều có thể

ứng dụng được. Đại để là một tay đánh ra, còn tay kia có thể

vận dụng tự do, hoặc co duỗi, hoặc gạt qua lại, cần nhất ở sức

mạnh và sức nhanh, như vậy là kiêm cả công lẫn thủ. Còn như

Hoành chưởng hay Thủ chưởng, tên gọi tuy có khác, nhưng tính

chất cũng chỉ là một, chẳng qua căn cứ vào hình thức biến hóa

mà đặt các tên khác nhau, chẳng như Hoành chưởng thì để tay

nằm ngang, còn Thụ chưởng thì tay duỗi ra xỉa thẳng tới trước.

SONG CHƯỞNG

Song chưởng là tụ hết lực vào hai tay để tấn công hoặc chống

đỡ. Bộ pháp sử dụng rộng rãi, nhưng nên lấy Trường sơn bộ và

Đằng bộ làm chủ yếu. Khi tấn công thì dùng song chưởng lợi

hơn. Còn như Thượng chỉ chưởng, Hạ sáp chưởng và Phụng

huyệt chưởng, thì cũng đều dùng hai tay một lượt, tính chất

cũng tương tự với Song chưởng, sự quan hệ về bộ pháp cũng

tương đồng, sự khác nhau về tên gọi chẳng qua là căn cứ ở hình

thức mà thôi.

Khái lược về chỉ pháp

Chỉ ngón tay là bộ phận nhỏ của cơ thể, sức rất yếu, dường như

là không đáng để ý trong quyền thuật, nhưng thật ra không phải

vậy tay hay chân cũng đều là khí giới che chở thân thể, mà tay

có ngón, cũng như lưỡi dao có mũi nhọn, mũi dao không nhọn

sắc là dao bỏ đi, cho nên ngón tay mà không luyện tập thì có

khác gì mũi dao cùn, mà cả cánh tay cũng bỏ đi. Hai người tỷ

thí, thắng hay bại, sống hay chết, đâu có phải chỉ ở chân tay,

bởi vì trong quyền thuật, chúng ta há chẳng nghe tới các chỉ

pháp như Song chỉ thám tỏa, hoặc Nhị Long hý châu hay sao ?

Chỉ trong chớp mắt mà móc được mắt đối phương, móc được

hầu đối phương, hoặc móc rách mũi đối phương, đó không phải

là công lực của một hai ngón tay hay sao ? Lại chẳng nghe trong

quyền thuật có những tên như Hải để thủ bảo, Tiểu nhi bính

mệnh, Mãn môn tuyệt bộ hay sao ? Cử động mấy ngón tay mà

làm tổn thương được huyệt đạo hoặc các bộ phận yếu hại trên

thân thể đối phương, đó không phải là nhờ chỉ lực hay sao ? Cho

nên chúng ta có thể nói rằng chỉ lực tuy yếu nhưng ứng dụng rất

rộng rãi, người tập luyện quyền thuật không thể không biết tới

chỉ pháp. Chỉ pháp gồm hai loại là Quỵ chỉ và Lập chỉ.

QUỴ CHỈ

Trong Quỵ chỉ, bốn ngón tay cong lại để lợi dụng đốt xương thứ

nhì của mỗi ngón. Sức mạnh dồn cả vào các ngón tay. Phép này

luyện tập dễ mà ứng dụng cũng dễ, nhưng lại là phép trọng yếu

của chỉ pháp.

LẬP CHỈ

Lập chỉ là các ngón tay đứng thẳng, tuy nhiên thường chỉ dùng

hai ngón, hoặc ngón trỏ và ngón giữa, hoặc ngón giữa và ngón

áp út, cũng có khi dùng tới ba ngón là ngón trỏ, ngón giữa và

ngón áp út. Chỉ lực có vẻ yếu, nhưng tập luyện lâu ngày thì ứng

dựng như thần, công hiệu cũng ngang với Quỵ chỉ.

Khái lược về chửu pháp

Thuật luyện về chửu pháp (phép sử dụng khuỷu tay và bắp tay)

đã từ lâu không thấy nói tới bởi vì người ta không biết rằng ứng

dụng của khuỷu tay và bắp tay rất rộng rãi, có quan hệ tới

chưởng pháp không ít. Bị chưởng của đối phương tấn công,

không dùng chửu thì không thể chống đỡ. Dùø tấn công bằng

thế nào đi nữa, đối phương cũng dùng sức mạnh của tay để uy

hiếp ta, cho nên phải dùng nguyên tắc "chửu khắc chửu" thì mới

ngăn được cái uy, đè được cái khí của đối phương. Chúng ta có

thể đến các phép như Đinh chửu, Bang chửu, Đặng chửu, là

những phép có sức công cực lớn. Cho nên sau khi nói về chỉ

pháp, phải nói qua về chửu pháp để cùng nghiên cứu,

THỤ CHỬU

Trong phép Thụ chửu, bắp tay dựng thẳng, tay hướng lên trên,

bàn tay nắm lại theo thế bán quyền, hoặc nắm chặt hẳn lại, đưa

ra phía trước để ngăn đòn, tay kia để ở kế bên để giúp sức.

LAN CHỬU

Công dụng của phép Lan chửu là ngăn cản, một bắp tay để nằm

ngang, cao hay thấp thì lấy ngực làm chuẩn, tay kia phụ đỡ

cánh tay nằm ngang cho vững.

KHẮC CHỬU

Trong phép này cũng để một cánh tay nằm ngang nhưng tay kia

thì tùy trường hợp mà vận dụng, hoặc giúp cánh tay nằm ngang

trong nhiệm vụ ngăn cản, hoặc có thể tấn công đối phương.

ĐINH CHỬU

Trong phép này, một bắp tay phóng ngang về phía trước, cao

ngang vai, đây là đòn tấn công, còn tay kia che giữ một bên làm

nhiệm vụ phòng vệ.

BANG CHỬU

Phép này tương tự như phép Đinh chửu, khác một điều là tay kia

xuất quyền cùng một lúc để hổ trợ thế xung kích cho cánh tay

đang tấn công.

ĐẶNG CHỬU

Trong phép này, một bắp tay cũng dựng thẳng, tương tự như

phép Thụ chửu, nhưng nhằm đỡ phía dưới.

Còn về bộ pháp trong khi dùng Chửu pháp thì không nhất định,

có thể tùy thời thay đời sao cho thuận lợi, do đó không bàn tới.

Khái lược về kiên pháp

Kiên pháp (phép dùng đòn vai) là một trong các loại quyền pháp

mà nếu không phải là người nghiên cứu sâu xa về quyền thuật

thì không thể luyện được, không phải là người am tường quyền

lý thì không thể dùng được. Kiên pháp là pháp cận kích (đánh

gần). Luyện tập khó không phải ở chỗ cần nhiều công phu, mà ở

chỗ đắc thế và mau lẹ. Sử dựng khó không phải là cần nhiều sức

mạnh, màở chỗ lợi dụng được sự nhanh nhẹn. Đắc thế và nhanh

nhẹn là thế nào ? Đắc thế là thình lình tạo được thế, để khom

người, lao thẳng về phía trước, dùng vai của mình xô cực mạnh

vào ngực hoặc vai của đối phương. Nhanh nhẹn là bước tới dùng

chân chặn chân đối phương, đồng thời dùng vai đánh vào vai

hay ngực đối phương.

Kiên pháp có ba loại là Tiền kiên. Hậu kiên và Trắc kiên. Tiền

kiên là mặt trước của vai, Hậu kiên là mặt sau của vai, Trắc kiên

là phía cạnh ngoài của vai.

TIỀN KIÊN

Trong pháp Tiền kiên, dung một chân chặn giữ chân đối phương

rồi dùng vai mình đánh vào vai đối phương. Hữu kiên tiền là

dùng vai phải của mình mà đánh vào vai phải của đối phương,

trong khi hai tay buông thõng và chân phải bước tới chặn chân

đối phương. Lúc chưa xuất đòn thì hai người còn đứng xa nhau,

nhưng khi xuất đòn thì thân mình sát cận đối phương, dùng sự

nhanh nhẹn và sức mạnh mà tấn công. Nếu đánh bằng vai trái

thì hành động ngược lại, nghĩa là dùng vai trái của mình mà

đánh vào vai trái đối phương.

HẬU KIÊN

Muốn luyện pháp Hậu kiên thì phải rành phép Tiền kiên. Bộ pháp

và cách xuất đòn cũng giống như ở Tiền kiên, chỉ khác là không

để vai mình đánh thẳng vào vai đối phương mà để vai mình đi

quá vai đối phương chút ít, sau đó mới vặn người, xoay mình lại

dùng phía sau vai mình đánh vào phía sau vai đối phương cho

đối phương ngã xấp xuống. Pháp này cũng như phèp Tiền kiên,

đánh được bằng cả vai phải lẫn vai trái.

TRẮC KIÊN

Phép này dùng được thì công hiệu còn hơn cả Tiền kiên và Hậu

kiên. Trong phép này, dùng đầu vai của mình mà đánh vào ngực

hoặc bụng đối phương. Phép này là phép cận chiến, khi thân ta

sát vào người đối phương, sức ta và đối phương ngang nhau, ta

cũng như đối phương cùng không có thế thuận để ra đòn, chân

tay không thuận để vận dụng. Trường hợp này chỉ cần nhanh

nhẹn kịp thời, thế Trắc kiên sẽ có công dụng rất lớn.

Khái lược về thối pháp

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!