Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Bảo vệ người tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
+BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRẦN THỊ THÚY HẰNG
BẢO VỆ NGƯỜI TIẾN HÀNH
TỐ TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRẦN THỊ THÚY HẰNG
BẢO VỆ NGƯỜI TIẾN HÀNH
TỐ TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành Luật hình sự và Tố tụng hình sự - Mã số: 60380104
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. VŨ ĐỨC TRUNG
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, tài liệu
trong Luận văn là trung thực. Kết quả Luận văn chưa được công bố ở các công
trình nào khác.
Học viên
Trần Thị Thúy Hằng
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
BMNN: Bộ máy nhà nước
CAND: Công an nhân dân
CQĐT: Cơ quan điều tra
CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng
ĐTV: Điều tra viên
HĐXX: Hội đồng xét xử
HTND: Hội thẩm nhân dân
KSV: Kiểm sát viên
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TGTT: Tham gia tố tụng
TTHS: Tố tụng hình sự
THTT: Tiến hành tố tụng
VAHS: Vụ án hình sự
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
Trang
CHƯƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ VIỆC BẢO VỆ NGƯỜI TIẾN
HÀNH TỐ TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................... 6
1.1. Cở sở lý luận và thực tiễn về việc bảo vệ người tiến hành tố tụng trong tố
tụng hình sự Việt Nam ............................................................................................ 6
1.1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................ 6
1.1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................ 10
1.2. Sơ lược sự hình thành và phát triển của quy định về người tiến hành tố tụng .. 13
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988 ...................................................... 14
1.2.2. Giai đoạn từ 1988 đến nay ....................................................................... 17
1.3. Người tiến hành tố tụng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam .................... 19
1.3.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng............................................................ 19
1.3.2. Vị trí của người tiến hành tố tụng ............................................................. 25
1.3.3. Vai trò của người tiến hành tố tụng .......................................................... 26
1.4. Pháp luật một số nước trên thế giới về vấn đề bảo vệ người tiến hành tố tụng ... 29
1.4.1. Pháp luật tố tụng hình sự Cộng hòa Liên Bang Nga ................................. 29
1.4.2. Pháp luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ........................ 33
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG BẢO VỆ NGƯỜI NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ
TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................................... 36
2.1. Bảo vệ người tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam ................... 36
2.1.1. Thực trạng bảo vệ người tiến hành tố tụng thuộc cơ quan điều tra ........... 37
2.1.2. Thực trạng bảo vệ người tiến hành tố tụng trong việc thực hiện quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ............................................................... 39
2.1.3. Thực trạng bảo vệ người tiến hành tố tụng thuộc cơ quan tòa án ............. 43
2.2. Nhận xét, đánh giá về vấn đề bảo vệ người tiến hành tố tụng trong tố tụng
hình sự Việt Nam .................................................................................................... 46
2.2.1. Kết quả đạt được trong việc bảo vệ người tiến hành tố tụng trong tố
tụng hình sự Việt Nam .............................................................................................. 46
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong công tác bảo vệ
người tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam ........................................... 52
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC BẢO VỆ
NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ......... 67
3.1. Bảo vệ người tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam - một
trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay ................................................................ 67
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo vệ người tiến hành tố tụng
trong tố tụng hình sự Việt Nam ............................................................................. 70
3.2.1. Giải pháp về pháp luật ............................................................................. 70
3.2.2. Giải pháp về con người ........................................................................... 80
3.2.3. Giải pháp khác ......................................................................................... 86
Kết luận ................................................................................................................... 90
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn minh nhân loại đã chứng minh rằng, khi xã hội ngày càng phát triển thì
quyền con người và vấn đề bảo vệ quyền con người càng được chú trọng, được xem
là trung tâm của mọi sự phát triển nhưng đồng thời cũng là đối tượng dễ bị xâm
phạm nhất, do đó, mà quyền con người cần phải được bảo vệ trên mọi phương diện.
Ngày nay nhiều Công ước, Hiệp định được kí kết giữa các quốc gia trên thế giới
nhằm hướng tới mục tiêu quan trọng là bảo vệ quyền con người. Ai cũng có quyền
được sống, tự do và an toàn thân thể1
, đó quyền thiêng liêng cơ bản nhất của mỗi
con người được sinh ra trong xã hội này. Đây không phải là trách nhiệm của mỗi
quốc gia mà là nhiệm vụ của toàn thế giới.
Ở nước ta hiện nay, vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người đã
được Đảng và Nhà nước ta hết sức chú trọng, quan tâm và xác định đây là một
trong những nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình xây dựng và đổi mới đất nước. Nhà
nước đã bằng rất nhiều cách thức, biện pháp khác nhau để thực hiện tốt nhiệm vụ
bảo vệ quyền con người và một trong những cách thức đó là sử dụng pháp luật như
một công cụ để thực hiện quyền lực, tổ chức thực hiện, bảo vệ các quyền con người
của công dân. Các quy định về quyền con người và bảo vệ quyền con người đã
được cụ thể hóa và dần hoàn thiện trong các bản Hiến pháp và các văn bản pháp
luật. Trong công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước cũng như cải cách tư pháp như
hiện nay thì Nhà nước ta càng chú trọng bảo vệ quyền con người trong pháp luật tố
tụng hình sự hơn, vì đây là lĩnh vực mang tính quyền lực và cưỡng chế nhà nước
cao nên quyền con người dễ bị xâm phạm.
Tuy nhiên, từ xưa đến nay nếu nói đến bảo vệ quyền con người trong lĩnh
vực hình sự người ta sẽ nghỉ ngay đến đó là bảo vệ quyền con người của bị can, bị
cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người bị hại… hay
nói rõ hơn là người ta chỉ quan tâm đến bảo vệ những người tham gia tố tụng mà ít
ai nhắc đến bảo vệ những người tiến hành tố tụng mặc dù chính họ trực tiếp tham
gia vào hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án góp phần quan trọng cho việc bảo
vệ công bằng cho mọi người mang lại kỷ cương cho xã hội, cụ thể ở đây là là đội
ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký Tòa án. Những
chủ thể này dù họ được thay mặt Nhà nước thực thi pháp luật, trong tay họ có quyền
lực cưỡng chế của Nhà nước nhưng như thế chưa đảm bảo là họ được an toàn không
bị xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm mà còn chưa kể đến thân
1
Mai Hồng Quỳ (2010), Hành trình của quyền con người (Những quan điểm kinh điển và hiện đại), Nxb Tri
Thức, tr.59.
2
nhân của họ cũng có thể bị liên lụy. Những chủ thể ấy đôi khi phải sống trong sự lo
lắng bị trả thù với chính bản thân hoặc người thân của trong gia đình của họ. Trong
thực tiễn hiện nay không ít trường hợp Điều tra viên, Kiểm sát viên, Chủ tọa phiên
tòa bị thân nhân của bị can, bị cáo hành hung, xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng,
bị nhắn tin đe dọa hoặc bị khủng bố tinh thần vì liên quan đến việc thừa hành công
vụ. Liệu rằng khi đang thi hành công vụ mà những chủ thể này bị khủng bố về tinh
thần và có thể tính mạng của chính họ và người thân họ bị đe dọa, bị xâm hại như
vậy thì họ còn có thể làm việc tốt, công bằng anh minh được nữa hay không?.
Người tiến hành tố tụng là những chủ thể thực thi pháp luật, bảo vệ pháp luật,
nhưng không có cơ chế nào để bảo vệ lại họ thì có phải là thiếu sót hay không?. Tại
Điều 7 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã khẳng định mọi công dân đều có quyền
được pháp luật bảo hộ về tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm tài sản và trong
Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền cũng khẳng định mọi người đều có quyền
được bảo vệ công bằng như nhau không phân biệt chuẩn tộc, giai cấp, màu da, địa
vị xã hội, quyền lực trong tay họ là gì, dù họ là ai thì cũng điều được pháp luật bảo
vệ như nhau. Vậy tại sao, chúng ta chỉ quan tâm bàn về những vấn đề bảo vệ bị can,
bị cáo, những người tham gia tố tụng mà không nói đến bảo vệ đội ngũ Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký tòa án. Luật thực định có quy
định về quyền và nghĩa vụ để người tiến hành tố tụng làm rõ tội phạm và người
phạm tội, tuy nhiên còn thiếu hẳn các quy định về bảo vệ đối với nhóm chủ thể này.
Rõ ràng, luật không có quy định đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm cho nhóm chủ thể này là một thiếu sót, vấn đề này mang tính nhận thức
khách quan mà hiện nay pháp luật cần quy định bổ sung.
Xuất phát từ những vấn đề trên, học viên nhận thấy việc tìm hiểu, nghiên cứu
một cách có hệ thống và chuyên sâu về vấn đề bảo vệ người tiến hành tố tụng mà cụ
thể là bảo vệ đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán, Hội thẩm và Thư
ký Tòa án trong tố tụng hình sự Việt Nam để bổ sung nhằm hoàn thiện các quy định
trong pháp luật tố tụng hình sự về vấn đề này là rất cấp thiết và mang giá trị thực
tiễn cao. Với những lý do đó, học viên chọn đề tài: “Bảo vệ người tiến hành tố tụng
trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn Thạc sỹ Luật
học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đây là đề tài có tính mới, tính cấp thiết và thực tiễn cao. Khi nói đến bảo vệ
quyền con người trong tố tụng hình sự người ta liên tưởng ngay đến bảo vệ người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng,… mà ít ai quan tâm đến vấn
đề bảo vệ những người tiến hành tố tụng. Cho đến nay theo học viên được biết chưa
3
có một công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể, cụ thể và chuyên sâu về vấn đề
này, thực tế một số sách, bài viết nghiên cứu liên quan tới vấn đề này nhưng tiếp
cận ở gốc độ rộng hơn, hoặc chung chung gồm các nghiên cứu sau:
- Nguyễn Thái Phúc (2009), Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự
Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh.
- Nguyễn Quang Hiền (2006), “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những
người tiến hành tố tụng hình sự thuộc cơ quan điều tra”, Tài liệu hội thảo đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự Việt
Nam”;
- Nguyễn Đức Huy (2007), Bảo vệ quyền con người trong hoạt động điều tra
vụ án hình sự, Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh;
- Võ Thị Kim Oanh (Chủ biên) (2010), Đảm bảo quyền con người trong tư
pháp hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh;
- Lê Thành Dương (2006), “Những bảo đảm quyền con người của kiểm sát
viên trong việc thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp – thực
trạng và giải pháp”, Tài liệu hội thảo đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Đảm bảo
quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam;
- Trịnh Văn Thanh (2006), “Vấn đề bảo vệ quyền con người của người tiến
hành tố tụng”, Tài liệu hội thảo đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Đảm bảo quyền
con người trong tố tụng hình sự Việt Nam;
- Nguyễn Văn Quý (2006), Đảm bảo quyền công dân trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh.
- Phạm Hồng Hải (1998), “Mấy ý kiến về vấn đề bảo vệ quyền con người
trong tố tụng hình sự ở nước ta”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (số 03).
Nhìn chung các công trình, bài viết trên tuy có đề cập đến vấn đề bảo vệ
quyền con người trong hoạt trong tố tụng hình sự nhưng đa phần là đề cập đến vấn
đề bảo vệ người tham gia tố tụng như người làm chứng, người bị hại hoặc bị can, bị
cáo…nếu có đề tài đề cập đến vấn đề bảo vệ người tiến hành tố tụng thì cũng chỉ đề
cập một cách chung chung là cần có thiết có sự bảo đảm về tính mạng, sức khỏe, an
toàn, danh dự, nhân phẩm cho những người tiến hành tố tụng nhưng bằng phương
pháp gì, cụ thể như thế nào thì chưa được nghiên cứu một cách chuyên sâu cũng
như chưa tìm ra giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này để bảo
vệ người tiến hành tố tụng được hiệu quả hơn.
4
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo vệ người tiến hành tố tụng và thực
trạng của nó từ đó giúp đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo
vệ người tiến hành tố tụng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trong phạm vi luận văn này học viên chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề
lý luận, pháp lý cũng như thực tiễn vấn đề bảo vệ những người tiến hành tố tụng
hiện nay để thấy rằng cần thiết bổ sung quy định về việc bảo vệ người tiến hành tố
tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam. Người tiến hành tố tụng theo quy định của
pháp luật gồm có: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên,
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh
án Tòa án, Hội thẩm, Thư ký Tòa án. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này học
viên chỉ tập trung, phân tích những vấn đề liên quan đến việc bảo vệ người tiến
hành tố tụng là: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký Tòa
án trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử làm nền tảng cho việc bảo vệ người
tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nhà nước
và pháp luật.
5.2. Phương pháp cụ thể
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Là phương pháp nghiên cứu xem xét
về lý luận cũng như thực tiễn vấn đề bảo vệ người tiến hành tố tụng trong thực tế để
rút ra kết luận cần bổ sung quy định bảo vệ người tiến hành tố tụng vào pháp luật
thực định và tìm ra những giải pháp tốt nhất để bảo vệ nhóm chủ thể này.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thực hiện phương pháp này để thu thập
thông tin về mức độ, diễn biến, tính chất của các hành vi xâm hại đến chủ thể tiến
hành tố tụng để tổng hợp, phân tích các dữ liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra: Được sử dụng để thu thập những thông tin cần thiết
từ một số vụ án điển hình mà chủ thể bị xâm hại là người tiến hành tố tụng và vấn
đề bảo vệ người tiến hành tố tụng mà các địa phương áp dụng trong thực tiễn. Đồng
thời gửi phiếu khảo sát lấy ý kiến thăm dò để thu thập những thông tin về thực tiễn
các vụ xâm hại đến người tiến hành tố tụng trong các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát
và Cơ quan điều tra để lấy số liệu phục vụ cho việc nghiên cứu
5
- Phương pháp chuyên gia: Được sử dụng để hỏi ý kiến của những cán bộ có
kinh nghiệm trong phòng tránh tình trạng người tiến hành tố tụng bị xâm hại khi
tiến hành điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự nhằm bổ sung vào những kiến nghị
giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ nhóm chủ thể này.
- Phương pháp so sánh: Được sử dụng để so sánh với các quy phạm của một
số nước trên thế giới về vấn đề bảo vệ người tiến hành tố tụng, từ đó rút ra những
yếu tố hợp lý để áp dụng vào các quy định của pháp luật nước ta.
6. Điểm mới của luận văn
- Về lý luận: Luận văn này là công trình nghiên cứu hoàn toàn mới và mang
tính tiên phong. Trong lịch sử nghiên cứu khoa học hiện nay chưa có công trình nào
nghiên cứu chuyên sân về vấn đề “Bảo vệ người tiến hành tố tụng trong tố tụng
hình sự Việt Nam”, mặc dù nhóm chủ thể này có vị trí và vai trò rất quan trọng
trong quá trình tìm ra sự thật khách quan của vụ án, mang lại trật tự, kỷ cương và
công bằng trong xã hội. Quyền lực mà nhà nước trao cho họ là rất lớn, họ được
nhân danh nhà nước áp dụng pháp luật, trừng trị các đối tượng coi thường pháp luật,
bảo vệ tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của con người và các tổ chức khác
trong xã hội. Và cũng chính vì quyền lực trong tay họ là để trấn áp, trừng trị người
có tội nên sẽ có những mâu thuẫn đương nhiên giữa họ và những người tham gia tố
tụng khác, và khi mâu thuẫn này nảy sinh thì vấn đề người tiến hành tố tụng bị hành
hung, xâm hại là đều không tránh khỏi. Do dó, học viên sử dụng lý luận các quy
định về người tiến hành tố tụng cũng như các lý luận khác có liên quan để nghiên
cứu, lập luận cho những lý luận về bảo vệ người tiến hành tố tụng trong tố tụng hình
sự Việt Nam.
- Về thực tiễn: Nghiên cứu về vấn đề bảo vệ người tiến hành tố tụng và tìm
ra giải pháp hữu hiệu nhất để bảo vệ nhóm chủ thể này có hiệu quả trong khi mọi
người chỉ chú tâm đến bảo vệ những người tham gia tố tụng là điểm mới quan trọng
nhất của luận văn.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn
gồm ba chương:
- Chương 1: Nhận thức chung về việc bảo vệ người tiến hành tố tụng trong tố
tụng hình sự Việt Nam
- Chương 2: Thực trạng bảo vệ người tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự
Việt Nam
- Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo vệ người tiến hành
tố tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam
6
CHƯƠNG 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ VIỆC BẢO VỆ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc bảo vệ người tiến hành tố tụng
trong tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1. Cơ sở lý luận
Quyền con người là một vấn đề có lịch sử lâu dài và rộng lớn, là vấn đề nhạy
cảm, phức tạp bởi nó gắn với các chế độ chính trị khác nhau. Quyền con người là
một trong những vấn đề được cả cộng đồng nhân loại nói chung và mỗi quốc gia
nói riêng ghi nhận và bảo vệ. Việc ghi nhận và bảo vệ quyền con người ở những
khía cạnh khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa và truyền
thống của mỗi dân tộc. Đề cập đến sự phát triển của các tư tưởng về quyền con
người chúng ta không thể không kể đến sự đóng góp của những tư tưởng đã được
thể hiện ở các tài liệu chính trị - pháp lí của các quốc gia tiên tiến mà tiêu biểu là
Mỹ và Pháp. Ngày 04/7/1776, Hợp chủng quốc Hoa kỳ đã gây tiếng vang lớn với
bản “Tuyên ngôn độc lập” nổi tiếng và đúng là “Thật khó mà đánh giá hết được giá
trị nhân đạo to lớn của Tuyên ngôn 1776”2
. Tuyên ngôn này đã khẳng định rằng
“Chúng tôi coi những chân lý sau đây là hiển nhiên: Tất cả mọi người sinh ra đều có
quyền bình đẳng; Tạo hóa cho họ những quyền bất khả xâm phạm, trong đó có
quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tư tưởng về các quyền tự
nhiên bất khả xâm phạm của con người còn được phát triển trong các học thuyết
của Russi, Groxi, Montesquies và trở thành những cơ sở tư tưởng cho cuộc cách
mạng tư sản Pháp, góp phần quan trọng cho việc ra đời bản “Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền 1789” của nước Pháp. Bản tuyên ngôn này cũng khẳng định
rằng người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Liên hệ lịch sử phát triển của việc nghiên cứu về quyền con người ở Việt
Nam, có thể thấy rằng, Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc đã có một sự tiếp
cận khá đa dạng về vấn đề quyền con người. Tuyên ngôn độc lập năm 1945, nét son
chói lọi và là lời tuyên bố đanh thép của nhân dân Việt Nam trước toàn thế giới, đã
chỉ ra rằng: “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền
được tự do và mưu cầu hạnh phúc”3
. Lịch sử nhân loại đã chứng minh “ở mỗi thời
đại, mỗi chế độ chính trị, kinh tế xã hội nhất định, lòng khao khát tự do, được bất
2
Lê Minh Thông (1998), “Hoàn thiện pháp luật về quyền con người trong điều kiện phát huy dân chủ ở nước
ta”, Tạp chí nhà nước và pháp luật (12), tr.3. 3 Phạm Ngọc Anh (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, Nxb Chính trị Quốc gia, tr.27.