Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

BÁO CHÍ đà NẴNG THỜI kỳ đổi mới 1986 – 2006
MIỄN PHÍ
Số trang
139
Kích thước
667.9 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1542

BÁO CHÍ đà NẴNG THỜI kỳ đổi mới 1986 – 2006

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi báo chí là một bộ

phận quan trọng trong công tác tư tưởng, nhằm góp phần xây dựng, củng cố nền

tảng tư tưởng chính trị của Đảng, tuyên truyền tập hợp nhân dân, xây dựng khối

đại đoàn kết toàn dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng của đất nước.

Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về

định hướng phát triển báo chí và quản lý báo chí, đã cho thấy Đảng và Nhà nước

luôn đánh gía cao vai trò của báo chí; quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện

để báo chí phát triển đúng hướng.

Thành phố (TP) Đà Nẵng được xem là một trong ba trung tâm (sau Hà Hội

và TP Hồ Chí Minh) báo chí của cả nước, với trên 70 cơ quan, văn phòng đại

diện, gần 400 hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Thời kỳ đổi mới, cùng với báo

chí cả nước, báo chí Đà Nẵng có những bước phát triển vượt bậc cả về số lượng,

loại hình, đội ngũ, cơ sở vật chất, tiềm lực kinh tế và từng bước nâng cao chất

lượng, ngày càng xứng đáng là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu trong

đời sống xã hội, cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, tổ chức xã hội và là

diễn đàn của nhân dân. Hoạt động báo chí trên địa bàn đã góp phần quan trọng

trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của địa phương và cả nước.

Mặc dù tác động của báo chí Đà Nẵng ngày càng lớn, vai trò và đóng góp

ngày càng được ngày càng được khẳng định, nhưng đến nay vẫn chưa có một

công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về báo chí Đà Nẵng,

nhất là báo chí thời kỳ đổi mới. Nghiên cứu báo chí thành phố Đà Nẵng thời kỳ

đổi mới giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn diện mạo báo chí trên trên địa

bàn, xem xét các mô hình tổ chức và hoạt động, đánh giá bước phát triển, vai trò

1

và những đóng góp của báo chí trong sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của

Đảng, đồng thời, rút ra được những hạn chế, yếu kém, để từ đó có thể đưa ra các

giải pháp khắc phục, cũng như định hướng phát triển báo chí trên địa bàn, góp

phần thực hiện thắng Nghị quyết đại hội X của Đảng đã đề ra.

Như vậy, với rất nhiều yêu cầu về khoa học và thực tiễn cấp bách đặt ra đối

với báo chí Đà Nẵng, chọn đề tài: “BÁO CHÍ ĐÀ NẴNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

1986 – 2006” để nghiên cứu, chúng tôi hy vọng sẽ giải quyết phần nào những

vấn đề khoa học và thực tiễn đặt ra ở trên.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Tuy chưa có công trình nghiên cứu về báo chí Đà Nẵng một cách đầy đủ và

hệ thống, nhưng việc nghiên cứu báo chí cả nước đã sớm được chú ý.

Dưới thời thuộc Pháp, năm 1927, tác phẩm Notes bibliographiques sur les

de la Preese eu L’endochine (Những ghi chú về tiểu sử báo chí Đông Dương)

của A. Masson xuất bản tại Hà Nội được xem là tác phẩm đầu tiên mở đầu việc

nghiên cứu báo chí nước ta. Hơn một thập niên sau, năm 1938, có thêm hai tác

phẩm Chế độ báo giới Nam Kỳ của Diệp Văn Kỳ và Nghề làm báo của Nguyễn

Văn Đính xuất bản tại sài Gòn. Nhìn chung, các tác phẩm này chỉ mới giới thiệu

một số nét về báo chí Đông Dương, chế độ báo chí và về nghề làm báo ở nước

ta lúc bấy giờ.

Sau Cách mạng Tháng Tám, trên Báo Tri Tân số 206 ra ngày 04/10/1945 có

đăng bài Nước ta xưa có tự do ngôn luận? của Nguyễn Văn Tố. Khi nói về nguồn

gốc báo chí nước ta, cụ Nguyễn cho rằng, những Quảng Văn Đình (thời Lê),

Quảng Minh Đình (thời Nguyễn) là hình thức sơ khai của báo chí nước nhà, ở

đó, “báo chí là những tờ huấn lệnh ở đình làng tựa như tờ acta diurna của người

La Mã xưa” vậy.

2

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, tuy việc nghiên cứu gặp

nhiều khó khăn nhưng các tác giả trong và ngoài nước cũng đã công bố được

một số công trình nghiên cứu về báo chí. Năm 1958, tác giả Đoàn Thị Đỗ cho

xuất bản Le Journalisme au les périodiques Vietnamiens de 1865 à 1944 (Báo chí

định kỳ người Việt giai đoạn 1965- 1944). Ở trong nước, đáng chú ý là học giả

Trần Huy Liệu viết Giới thiệu lịch sử báo chí Việt Nam xuất bản năm 1959;

Huỳnh Văn Tòng viết Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thuỷ đến 1930, xuất bản

tại Sài Gòn năm 1973, Vũ Bằng có Bốn mươi năm “nói láo” xuất bản tại Sài

Gòn năm 1974. Nói chung, các công trình nghiên cứu báo chí nước ta thời kỳ

này có đóng góp đáng kể. Các tác giả đã khắc hoạ khá rõ nét lịch sử báo chí

nước ta từ buổi khởi đầu đến năm cận kề cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi.

Sau khi đất nước thống nhất, nhất là thời kỳ đổi mới, việc nghiên cứu lịch

sử báo chí càng được quan tâm. Hơn ba thập niên qua, đã có khá nhiều công

trình nghiên cứu về lịch sử báo chí Việt Nam cũng như của từng địa phương

được công bố. Đáng chú ý là các công trình Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam

của Hồng Chương, xuất bản năm 1987; Lịch sử báo chí báo chí Việt Nam (1965-

1945) do Đỗ Quang Hưng chủ biên, xuất bản năm 1991; Lịch sử báo chí - đề

cương và bộ thư tịch báo chí từ 1965 đến 1990 của Tô Huy Rứa, xuất bản năm

1997…Hầu hết các công trình này đều tập trung nghiên cứu về quá trình hình

thành và phát triển của báo chí Việt Nam trên bình diện cả nước, trong đó, về

thời gian, các công trình thường chú ý đến giai đoạn hình thành báo chí Việt

Nam và báo chí cách mạng Việt Nam; về không gian, các tác giả chú trọng đến

các hoạt động báo chí ở hai trung tâm báo chí lớn Hà Nội và TP Hồ Chí Minh

Ngoài các công trình nghiên cứu lịch sử báo chí ở trên, một số các tác giả

như Lê Thanh Bình, Hà Minh Đức, Đinh Văn Nhiếp, Phan Quang, Tạ Ngọc Tấn,

Hữu Thọ lại đề cập đến các vấn đề chức năng của báo chí trên các thể tài phản

3

ánh, các vấn đề lý luận về nhận thức của người làm báo, về định hướng hoạt

động và quản lý báo chí…

Ở TP Đà Nẵng, với việc nghiên cứu lịch sử báo chí thì ngoài công trình

Lịch sử báo Đảng các tỉnh, thành của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, có

đăng một số tư liệu về quá trình hình thành và phát triển của Báo Đà Nẵng, trên

một số tạp chí như Người Làm Báo Đà Nẵng, Văn Hoá Đà Nẵng hay các tập san

của Báo Đà Nẵng, Báo Công An TP Đà Nẵng thỉnh thoảng có đăng tải một số

bài viết về tình hình báo chí ở Đà Nẵng, Đài Phát thanh - Truyền hình Đà Nẵng,

Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại Đà Nẵng sản xuất một vài phóng sự truyền

hình đề cập đôi nét về một số lĩnh vực của hoạt động báo chí.

Tóm lại, tất cả các tài liệu vừa nêu, hoặc là chưa đề cập đến báo chí Đà

Nẵng trong thời kỳ đổi mới, hoặc chỉ đề cập đến một số khía cạnh của nghề báo,

chưa khái quát được diện mạo báo chí Đà Nẵng trong giai đoạn này. Tuy vậy, tất

cả các công trình, bài viết trên là những cơ sở quan trọng để chúng tôi tham

khảo, kế thừa trong luận văn này.

3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Mục đích đề tài là dựng lại bức tranh tổng thể về tổ chức và hoạt động báo

chí trên địa bàn TP Đà Nẵng sau 20 năm đổi mới. Trên cơ sở đó, đề tài đánh giá

khách quan vai trò, đóng góp cũng như nhận diện đúng những tồn tại, hạn chế

của báo chí Đà Nẵng trong thời gian qua, qua đó đề xuất các giải pháp khắc phục

để đưa báo chí Đà Nẵng phát triển nhanh, đúng định hướng.

- Đối tượng đề tài là toàn bộ các loại báo tiếng Việt, gồm báo in, báo nói,

báo hình của địa phương Đà Nẵng, của Trung ương và các địa phương khác có

giấy phép đặt cơ quan, văn phòng đại diện hoạt động trên địa bàn TP Đà Nẵng.

4

- Đề tài giới hạn về không gian là báo chí hoạt động ở thành phố Đà Nẵng,

về thời gian là 20 năm đổi mới (1986-2006).

4. Nguồn tư liệu

Trên cơ sở tham khảo và kế thừa các nguồn tư liệu về lịch sử, kinh tế, chính

trị, xã hội TP Đà Nẵng của các nhà nghiên cứu trước nay để xây dựng cơ sở luận

văn, như Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán Triều Nguyễn, Lịch sử TP

Đà Nẵng (của Viện Sử học và Uỷ ban Nhân dân TP Đà Nẵng), Đô thị Việt Nam

dưới thời Nguyễn của Nguyễn Thừa Hỷ - Đỗ Bang - Nguyễn Văn Đăng, Phố

Cảng Đà Nẵng từ năm 1802 đến năm 1860 của Lưu Trang, Quảng Nam trong

hành trình mở cõi của Nguyễn Q.Thắng… chúng tôi tập trung tìm kiếm, khai

thác các nguồn tư liệu chính về báo chí. Bao gồm các công trình nghiên cứu, các

tài liệu, bài viết về báo chí, các tờ báo, tuần báo, tạp chí, tập san với các loại hình

báo in, báo nói, báo hình được phát hành trên địa bàn TP Đà Nẵng.

5. Phương pháp nghiên cứu

Ngoài những nguyên lý có tính phương pháp luận, chúng tôi sử dụng

phương pháp lịch sử, phương pháp logic và các phương pháp cụ thể khác như

phương pháp sưu tầm, xử lý, xác minh tư liệu; phương pháp thống kê, so sánh,

đối chiếu; phương pháp phân tích, tổng hợp và phương pháp xử lý liên ngành…

để nghiên cứu và biên soạn luận văn này.

6. Đóng góp của luận văn

Đề tài trình bày một cách tương đối toàn diện và cụ thể về tổ chức và hoạt

động báo chí TP Đà Nẵng trong thời kỳ đổi mới. Những đánh giá đóng góp của

báo chí Đà Nẵng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hội địa

phương và của cả nước…

5

Đề tài cố gắng hệ thống tư liệu về báo chí Đà Nẵng 20 năm đổi mới phục vụ

cho công tác nghiên cứu, hoạch định chính sách trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận,

báo chí của TP Đà Nẵng của các cấp lãnh đạo địa phương và Trung ương.

Luận văn cũng góp thêm một nguồn tư liệu về lịch sử, văn hoá địa phương

Đà Nẵng cho tổ chức, cá nhân quan tâm tham khảo, nghiên cứu.

7. Cấu trúc luận văn

Luận văn được trình bày gồm ba phần: mở đầu, nội dung và kết luận và

được thiết kế thành 3 chương như sau:

Chương 1: Tổng quan về thành phố Đà Nẵng và tình hình hoạt động

báo chí Đà Nẵng trước thời kỳ đổi mới

Chương 2: Tổ chức và hoạt động của báo chí Đà Nẵng thời kỳ đổi

mới (1986-2006)

Chương 3: Nội dung phản ánh, vai trò và đóng góp của báo chí Đà

Nẵng thời kỳ đổi mới.

Ngoài ra, trong luận văn còn có một số lượng đáng kể đầu sách, và các loại

lược đồ, sơ đồ, ảnh, và một số tư liệu khác.

6

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

VÀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ Ở ĐÀ NẴNG

TRƯỚC THỜI KỲ ĐỔI MỚI

1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên

Thành phố Đà Nẵng nằm ở vị trí từ 15°5' đến 16°14' vĩ Bắc, 107°18' đến

108°20' kinh Đông. Diện tích tự nhiên (2004) là 1.255,53 km2, bao gồm 6 quận

và 2 huyện. Địa giới đất liền, phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế. Phía Tây và

Nam giáp tỉnh Quảng Nam. Phía Đông giáp biển Đông. Đà Nẵng nằm ở vị trí

gần trung điểm của 3 di sản văn hoá thế giới nổi tiếng là cố đô Huế, Phố cổ Hội

An và Thánh địa Mỹ Sơn. Đà Nẵng nằm vào trung độ cả nước, trên trục giao

thông huyết mạch Bắc - Nam cả về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường

hàng không, cách thủ đô Hà Nội 764 km về phía Bắc và cách TP Hồ Chí Minh

964 km về phía Nam. Trong phạm vi khu vực và quốc tế, TP Đà Nẵng là một

trong những cửa ngõ quan trọng ra biển của Tây Nguyên và một số nước trong

khu vực sông MêKông. Về hàng hải, Đà Nẵng cách Hải Phòng 310 hải lý; cảng

Sài Gòn 520 hải lý; cách Macao 480 hải lý; Hải Nam 320 hải lý; Hồng Kông 550

hải lý; Manila 720 hải lý; từ Đà Nẵng đi Singapore chỉ 960 hải lý… Nằm ngay

trên một trong những tuyến đường biển và đường hàng không quốc tế, TP Đà

Nẵng có một vị trí địa lý đặc biệt quan trọng về chính trị, quân sự, kinh tế.

Địa hình TP Đà Nẵng khá đa dạng, có cả đồng bằng, trung du và miền núi.

Vùng núi cao và dốc tập trung ở phía Tây và Tây Bắc, từ đây có nhiều dãy núi

chạy dài ra biển, một số đồi thấp xen kẽ vùng đồng bằng ven biển hẹp. Địa hình

đồi núi chiếm diện tích lớn, độ cao khoảng từ 700m-1.500m, độ dốc lớn (>40°),

là nơi tập trung nhiều rừng đầu nguồn và có ý nghĩa bảo vệ môi trường sinh thái

7

của thành phố. Đồng bằng ven biển là vùng đất thấp chịu ảnh hưởng của biển bị

nhiễm mặn, là vùng tập trung nhiều cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ,

quân sự, đất ở và các khu chức năng của thành phố.

Phía Tây và Tây Bắc là dãy núi cao chập chùng. Núi Chúa (trong cụm Bà

Nà - Núi Chúa) cách trung tâm thành phố 30 km về phía Tây. Đỉnh núi Chúa cao

1480 mét so với mực nước biển. Ở đây có thể quan sát rộng khắp TP Đà Nẵng,

nhất là về đêm, thành phố hiện lên như một dải Ngân Hà. Bà Bà - Núi Chúa có

đỉnh khá bằng phẳng, khí hậu mát mẻ như Đà Lạt (Lâm Đồng), Bạch Mã (Thừa

Thiên - Huế). Từ đầu thế kỷ XX người Pháp đã xây dựng nơi đây thành khu nghỉ

dưỡng tuyệt hảo với gần 100 biệt thự lớn nhỏ. Cuối thập niên 90 của thế kỷ XX,

khu nghỉ mát này đã được chính quyền đầu tư xây dựng lại thành khu du lịch

sinh thái khá nổi tiếng.

Nổi bật về phía Tây Bắc là đèo Hải Vân có chiều dài 21km, được mệnh

danh là “đệ nhất hùng quan”. Sách Ô Châu cận lục của Dương Văn An miêu tả:

“Núi phân chia đường Nam Bắc, mây đưa đón khách vãng lai, vách đá cao ngất,

là ranh giới giữa Thuận Hóa và Quảng Nam. Từ địa phận Thuận Hóa men theo

đường mà đi ước hơn một ngày mới tới địa phận Quảng Nam. Đúng là nơi xung

yếu của hai đạo, nên đã có quan ải để phòng bị” [1:23]. Cuối thế kỷ XIX, người

Pháp xây dựng tuyến đường sắt qua đèo. Năm 2005, hầm đường bộ qua đèo Hải

Vân khánh thành và đi vào hoạt động, rút ngắn khoảng cách qua đèo từ 21km

xuống còn 6,28 km.

Đà Nẵng là vùng đất hướng ra biển. Bờ biển Đà Nẵng dài 30km với nhiều

bãi tắm cực đẹp. Vùng lãnh hải có thềm lục địa độ sâu 200 mét từ đất liền trải ra

125 km, tạo thành vành đai nước nông rộng lớn. Sách Đại Nam nhất Thống chí

miêu tả: “Ở phía Bắc huyện Hoà Vang, có tên là vũng Đà Nẵng: phía Đông có

núi Sơn Trà, phía Bắc là ải Hải Vân, phía Tây là tấn Câu Đê, chu vi dài 29

8

trượng, phía Đông Nam là vũng Trà, ấy là chỗ nước biển chứa một vũng lớn,

nước sâu lại rộng, ngoài có các núi ngăn che, không có ba đào ào ạt, những ghe

tàu qua lại gặp gió lớn hay đậu nghỉ ngơi tại đây” [143:47]. Bãi biển Đà Nẵng đã

được Tạp chí Forbes mô tả: “Những bãi cát nơi đây trải dài tới hơn 30 km, cực

kỳ hấp dẫn những người muốn tham dự các hoạt động thể thao trên biển như lướt

sóng. Một khoảng không gian rộng, thoáng đãng, chan hòa nắng gió vùng nhiệt

đới; những bãi tắm tuyệt đẹp với cát trắng tinh, dài và rộng, nước biển xanh ngăn

ngắt hay những tuyến đường rộng thênh thang tạo thành một nơi lý tưởng để

nghỉ ngơi, thư giãn...”[69:1] Năm 2005, tạp chí này cũng đã bình chọn bãi biển

Đà Nẵng là một trong 6 bãi biển quyến rủ nhất hành tinh.

Nổi lên trên bãi biển, về phía Đông, là bán đảo Sơn Trà (Sơn Chà) và Ngũ

Hành Sơn (núi Non Nước, núi Tam Thai). Bán đảo Sơn Trà, còn được người Mỹ

gọi là Núi Khỉ (Monkey Mountain), độ cao 693 mét, rộng 4.640 mét, là nơi mà

đất liền Đà Nẵng vươn ra biển Đông xa nhất. Bán đảo Sơn Trà là khu bảo tồn

thiên nhiên với nhiều động thực vật quý hiếm. Xuôi về Hội An ta bắt gặp danh

thắng Ngũ Hành Sơn, đây là cụm 5 ngọn núi: Thuỷ, Thổ, Hoả, Mộc, Kim với

nhiều hang động huyền bí. Danh thắng này được xếp hạng quốc gia, mỗi năm

thu hút hàng vạn du khách đến vãn cảnh.

Hệ thống sông ngòi ở Đà Nẵng là hạ lưu của các sông khởi phát từ dãy

Trường Sơn, có tổng chiều dài 162,7 km, trong đó có hai sông đổ ra biển là sông

Hàn và sông Cu Đê. Sông Hàn là hợp lưu của sông Vĩnh Điện và sông Cẩm Lệ

thuộc hệ thống hợp lưu sông Thu Bồn và Vu Gia. Sông Hàn (từ cửa biển đến cầu

Nguyễn Văn Trỗi) dài 5,4 km, chảy qua lòng thành phố, tạo nên trục kiến trúc đô

thị độc đáo. Từ sông Hàn có thể qua sông Cổ Cò, còn gọi là sông Cầu Biện (dài

khoảng 16 km, nhiều đoạn nay đã bị bồi lấp) vào Hội An. Đây cũng chính là con

đường giao thương huyết mạch tạo nên sự phát triển của Đà Nẵng và Hội An vào

9

thế kỷ XVII- XVIII. Sông Cu Đê dài 39,7 km, là hợp lưu của hai sông Nam và

sông Bắc tại thôn Giàng Bí (xã Hoà Bắc), chảy qua các xã Hoà Bắc, Hoà Liên

(Hoà Vang) và phường Hoà Hiệp Nam (Liên Chiểu), đổ ra Vịnh Đà Nẵng tại cửa

Nam Ô. Đặc điểm sông ngòi Đà Nẵng là không tạo mạng liên hoàn, chảy từ Tây

sang Đông, độ dốc lớn. Mùa mưa nước chảy xiết, mùa khô nước cạn kiệt, do

vậy, làm hạn chế khả năng vận tải [151:5].

Đà Nẵng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình, nhiệt độ cao

và ít biến động. “Từ Hải Vân trở vào Nam là phạm vi của đới rừng á xích đạo.

Đà Nẵng - xứ Quảng không có mùa khô rõ rệt, do tác dụng của bức chắn của

khối núi bắc Kontum nên trong mùa mưa lượng mưa còn đáng kể. Hải Vân như

một bức tường thành làm giới hạn cuối cùng cho cái mùa đông gió bấc lạnh lùng

của mùa đông nước ta” [201:8]. Khí hậu Đà Nẵng là nơi chuyển tiếp đan xen

giữa khí hậu miền Bắc và miền Nam, với tính trội là khí hậu nhiệt đới điển hình

ở phía Nam. Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa kéo dài từ tháng 8 đến tháng 12

và mùa khô từ tháng 1 đến tháng 7, thỉnh thoảng có những đợt rét mùa đông

nhưng không đậm và không kéo dài. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng

25,9°C; độ ẩm 83,4% và lượng mưa 2.504,57mm/năm.

Với vị trí là đầu mối giao thông của cả nước và khu vực, có sân bay quốc

tế, cảng biển, là cửa ngỏ của lang lang kinh tế Đông-Tây, hạt nhân của vùng kinh

tế trọng điểm miền Trung nên Đà Năng có vị trí khá quan trọng về quân sự,

chính trị, kinh tế, văn hóa. Đây cũng chính là tiền đề để TP Đà Nẵng nhanh

chóng trở hành một trong những trung tâm thông tin, nhất là báo chí hình thành

và phát triển.

1.2. Vài nét về điều kiện xã hội

1.2.1. Lược sử thành phố Đà Nẵng

10

Sách Đại Nam nhất thống chí chép, Đà Nẵng xưa thuộc đất Quảng Nam.

Quảng Nam nguyên là đất Việt Thường Thị. Thời nhà Tần thuộc Tượng Quận,

nhà Hán đổi thành quận Nhật Nam. Năm 192, Khu Liên nổi lên chiếm Nhật

Nam, lập ra quốc gia Lâm Ấp. Năm 757, Quốc hiệu Lâm Ấp đổi thành Chămpa.

Chămpa lấy Quảng Nam - Đà Nẵng (Amaravâti) làm quận trung tâm, xây kinh

đô ở Trà Kiệu, lập hệ thống chính quyền, pháp chế, văn hoá, xã hội và tôn giáo

theo mô hình Ấn Độ.

Năm 1306, sau khi nhận sính lễ là hai châu Ô, Lý (Rí) từ vua Chămpa là

Chế Mân, vua Trần Anh Tông đặt Ô Châu làm Thuận Châu và Lý Châu làm Hoá

Châu (từ nam Quảng Trị đến bắc Quảng Nam ngày nay). Từ đây, những nhóm

người Việt đầu tiên bắt đầu di cư vào vùng đất mới này để khai phá, lập nghiệp.

Năm 1402, thời Hồ, sau chiến thắng của Hồ Hán Thương, cương vực Đại Việt

được mở rộng vào phía Nam đến Chiêm Động - Cổ Luỹ (Nam Quảng Nam -

Quảng Ngãi ngày nay).

Thời Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 7 (1469), vua chia nước thành

12 đạo Thừa tuyên. Theo đó, hai châu Thuận, Hoá thành Thừa tuyên Thuận Hoá.

Thuận Hóa Thừa tuyên (từ Hoành Sơn đến bắc Quảng Nam) gồm 2 phủ là Triệu

Phong và Tân Bình. Phủ Triệu Phong có 6 huyện: Kim Trà, Đan Điền, Hải Lăng,

Điện Bàn, Vũ Xương và Tư Vinh. Huyện Điện Bàn có 12 tổng, 96 xã. Năm

Hồng Đức (1471). Tháng 6, Lê Thánh Tông lập đạo Thừa tuyên Quảng Nam

gồm 3 phủ, 9 huyện (từ Nam sông Thu Bồn đến Bình Định ngày nay). Đà Nẵng

vẫn thuộc huyện Điện Bàn, phủ Triệu Phong, thừa tuyên Thuận Hóa. Năm Hồng

Đức thứ 21, vua đổi đạo Thừa Tuyên thành Xứ. Cả nước có 13 xứ. Danh xưng

“Xứ Thanh”, “Xứ Nghệ”, “Xứ Quảng” có lẽ xuất hiện từ đây. Đến đời Lê Tương

Dực, niên hiệu Hồng Thuận, đổi “xứ” làm “trấn”.

11

Dưới thời Nguyễn, năm 1604, chúa Nguyễn tách huyện Điện Bàn khỏi phủ

Triệu Phong - Thuận Hóa lập phủ Điện Bàn thuộc Quảng Nam. Phủ Điện Bàn

gồm năm huyện: Tân Phước, An Nông, Hòa Vinh (Vang), Diên Khánh và Phú

Châu. Sau khi kế nghiệp, năm 1614, Nguyễn Phước Nguyên lập các Dinh và các

Ty thuộc Dinh (thay cho Xứ và Ty thời Lê). Đến năm 1808, dinh Quảng Nam

đổi thành trấn Quảng Nam. Theo địa bạ được lập năm 1815, Đà Nẵng là một

trong 27 làng thuộc Tổng Bình Thái Hạ, huyện Hòa Vang, phủ Điện Bàn. Cơ cấu

tổ chức theo mô hình làng xã. Tuy nhiên, do vị trí quan trọng của mình nên Đà

Nẵng được chính quyền Trung ương rất quan tâm, tăng cường bộ máy quản lý về

hành chính và quân sự. Năm 1831, trong cuộc cải cách hành chính của vua Minh

Mạng, trấn Quảng Nam được đổi thành tỉnh Quảng Nam. Năm 1888, dưới sức ép

của Pháp, triều đình Huế ký đạo dụ nhượng Đà Nẵng (cùng với Hà Nội và Hải

Phòng) thành nhượng địa dưới quyền trực trị của người Pháp, gồm 5 xã cắt ra từ

huyện Hòa Vang: Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam Dương và Nại

Hiên Tây (còn gọi là Ngũ xã). Năm 1901, Triều Nguyễn lại ký đạo dụ nhượng

thêm 8 xã bên tả ngạn (Xuân Đán, Thạc Gián, Yên Khê, Liên Trì, Bình Thuận,

Xuân Hòa, Thanh Khê, Đông Hà Khê thuộc huyện Hòa Vang) và 6 xã bên hữu

ngạn (Mỹ Khê, An Hải, Tân Thái, Mân Quang, Nại Hiên Đông, Vĩnh Yên thuộc

huyện Diên Phước) cho Pháp. Ngày 19/09/1905, Toàn quyền Đông Dương ra

Nghị định tách TP Tourane (Đà Nẵng) khỏi tỉnh Quảng Nam, thành một đơn vị

hành chính độc lập, gồm 19 xã (13 xã phía tả ngạn sông Hàn và 6 xã phía hữu

ngạn). Đà Nẵng được xếp vào loại thành phố cấp 2, như TP Chợ Lớn trước đó và

TP Phnom Penh (Campuchia) sau này. Về tổ chức hành chính, đứng đầu là viên

Đốc Lý (Resident - Maire), do Khâm sứ đề nghị, Toàn quyền phê chuẩn. Ngoài

ra còn có một Hội đồng thành phố làm nhiệm vụ tư vấn. Sau cách mạng Tháng

Tám, Đà Nẵng mang tên Thành Thái Phiên. Cuối năm 1945 đổi lại tên Đà Nẵng,

12

chia thành 3 khu: Trung, Tây và Đông. Đầu năm 1946, Đà Nẵng lại được chia

thành 7 khu, đảo Hoàng Sa là đơn vị hành chính trực thuộc Đà Nẵng. Dưới chế

độ Việt Nam cộng hoà, Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam. Năm 1962, tỉnh Quảng

Nam tách thành hai: Quảng Nam và Quảng Tín, Đà Nẵng trực thuộc chính quyền

Trung ương. Đà Nẵng, bấy giờ có 3 quận (I,II,III), đứng đầu mỗi quận là một

quận trưởng. Năm 1967 thành phố lại được chia thành 4 cấp đơn vị hành chính:

cấp thị xã, cấp quận (3 quận), cấp khu phố (28 khu phố) và cấp khóm. Năm

1972, Đà Nẵng lại được điều chỉnh ranh giới hành chính, theo đó, thành phố có 3

quận, 19 khu phố và 109 khóm. Sau giải phóng, TP Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng

Nam - Đà Nẵng (QN-ĐN). Tháng 11/1996 tại kỳ họp thứ X, Quốc hội Nước

cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khóa IX) đã phê chuẩn nghị quyết chia

tách tỉnh QN-ĐN thành hai đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương. Ngày

15/7/2003 TP Đà Nẵng chính thức được công nhận là đô thị loại 1.

1.2.2. Khái quát đời sống chính trị, kinh tế, xã hội trước thời kỳ đổi mới

1.2.2.1. Đời sống chính trị

Đà Nẵng trước năm 1945 là một trong những trung tâm kinh tế của Triều

Nguyễn và của chính quyền Pháp tại Đông Dương. Dưới chế độ Việt Nam Cộng

hoà, Đà Nẵng là khu liên hợp quân sự khổng lồ của Mỹ - Ngụy. Các hoạt động

kinh tế chủ yếu phục vụ cho guồng máy chiến tranh, sản xuất què quặt, văn hoá

nô dịch, thông tin kìm hãm. Giống như các đô thị lớn ở miền Nam trước đây, Đà

Nẵng là thành phố thương mại và tiêu thụ, sự phồn vinh chỉ là giả tạo, vay mượn.

Sau giải phóng, ngày 04/10/1975, Uỷ ban Nhân dân (UBND) Cách mạng

khu Trung Trung bộ ra quyết định số 119/QĐ hợp nhất tỉnh Quảng Nam và đặc

khu Quảng Đà thành tỉnh QN-ĐN. Nhiệm vụ mới đặt ra cho Đảng bộ và nhân

dân Đà Nẵng là nhanh chóng xây dựng hệ thống chính quyền cơ sở, ổn định an

13

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!