Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Báo chí cho trẻ em ở nước ta hiện nay
PREMIUM
Số trang
231
Kích thước
2.0 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
836

Báo chí cho trẻ em ở nước ta hiện nay

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

-----------------------------

MỤC LỤC

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

--------------------------------------------------------

BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

ĐỀ TÀI CẤP BỘ NĂM 2007

MÃ SỐ: B. 07 – 42

BÁO CHÍ CHO TRẺ EM

Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

CƠ QUAN CHỦ TRÌ: HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI: PGS. TS NGUYỄN VĂN DỮNG

THƯ KÝ KHOA HỌC: TS VŨ THỊ KIM HOA

7392

08/6/2009

HÀ NỘI - 2007

3

DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI THAM GIA

1. ThS. Nguyễn Đồng Anh,

Đài truyền hình Việt Nam

2. PGS. TS Nguyễn Văn Dững,

Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Chủ nhiệm đề tài;

3. ThS. Đỗ Thị Thu Hàng,

Học viện Báo chí và Tuyên truyền;

4. TS. Vũ Thị Kim Hoa,

Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Thư ký đề tài;

5. ThS. Nguyền Hà Linh,

Bộ Thông tin và Truyền thông

6. Nhà báo Đặng Nam,

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội;

7. Nhà báo Lan Minh,

Đài Tiếng nói Việt Nam;

8. Nhà báo Phạm Tài Nguyên,

Hội Nhà báo Việt Nam

9. ThS. Nguyễn Ngọc Oanh,

Học viện Báo chí và Tuyên truyền;

10.CN. Nguyễn Thị Hằng Thu,

Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

4

MỤC LỤC

TÊN CHƯƠNG, MỤC Trang

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài 5

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 7

3. Giả thuyết nghiên cứu 8

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 8

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9

6. Phương pháp nghiên cứu 10

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 11

8. Kết cấu của công trình 12

Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN - THỰC TIỄN

CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Một số khái niệm liên quan vấn đề nghiên cứu

1.2. Công chúng trẻ em với báo chí

1.3. Đạo đức nghề nghiệp nhà báo với trẻ em

1.4. Vai trò của báo chí-truyền thông trong việc giải quyết

các vấn đề trẻ em

13

15

20

37

Chương II: HIỆN TRẠNG BÁO CHÍ

CHO TRẺ EM HIỆN NAY

2.1. Tổng quan báo chí cho trẻ em ở nước ta hiện nay

2.2. Thực trạng báo chí cho trẻ em ở nước ta

2.3. Về giải báo chí “Nhà báo với trẻ em Việt Nam”

42

44

92

Chương III: BÁO CHÍ CHO TRẺ EM

- NHỮNG VẤN ĐỀ VÀ KHUYẾN NGHỊ

3.1. Trẻ em Việt Nam trước những biến đổi của xã hội trong

thời kì hội nhập

3.2. Báo chí với nhu cầu của trẻ em

3.3. Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả

tác động của báo chí cho trẻ em

3.4. Những giải pháp nâng cao chất lượng báo chí cho trẻ em

100

109

118

127

KẾT LUẬN 133

Danh mục tài liệu tham khảo 139

Phụ lục 142

5

A. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên thông tin, ở đó nhu cầu được

tiếp cận với các phương tiện truyền thông đại chúng của con người ngày càng

gia tăng mạnh mẽ và toàn diện. Chưa bao giờ báo chí và các phương tiện

truyền thông đại chúng phát triển nhanh chóng và có vai trò quan trọng như

ngày nay.

Mạng internet phát triển, công nghệ số cùng với việc phổ cập giá rẻ các

phương tiện truyền thông đã và đang làm thay đổi tư duy, lối sống và cách

ứng xử của con người với nhau và với hệ thống xã hội nói chung.

Đối với trẻ em, báo chí, truyền hình, radio đã không còn xa lạ, mà trái

lại đã trở thành người bạn đồng hành trong quá trình nhận thức và khám phá

thế giới xung quanh mình. Báo chí và các phương tiện truyền thông, các dạng

thức truyền thông có vai trò to lớn trong quá trình hình thành nhân cách, diện

mạo văn hóa cho trẻ em. Vì vậy để có được những chương trình, tờ báo hay,

thực sự trở thành người bạn thân thiết đối với các em, ở đó các em có thể chia

sẻ, nói lên tiếng nói của chính mình, đang là thách thức rất lớn đối với đội ngũ

những người làm báo hiện nay.

Ở Anh người ta đã từng thăm dò dư luận và đưa ra những con số thống

kê sau đây: "80% trẻ em cảm thấy các chương trình tin tức chỉ "thỉnh

thoảng”, thậm chí "không bao giờ" đề cập đến vấn đề mà độ tuổi các em

quan tâm; 67% nói rằng các phương tiện truyền thông nên để chính các em

xuất hiện nhiều hơn nữa thay vì mời chuyên gia hay các bậc phụ huynh nói về

các vấn đề của trẻ". Những con số trên phần nào nói lên vị trí khiêm tốn của

trẻ em trong mối quan hệ với truyền thông.

Trong xã hội Việt Nam, trẻ em là nhóm công chúng xã hội đặc thù,

chiếm hơn 30% dân số và luôn được mọi người quan tâm với những tình cảm

đặc biệt. Bởi vậy, báo chí viết về trẻ em phải vừa bảo vệ được quyền lợi của

các em, giúp các em thực hiện quyền của mình một cách tốt nhất lại phải hay,

hấp dẫn được trẻ.

Năm 1991, Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á ký Công ước quốc tế về

quyền trẻ em và ban hành chương trình hành động vì quyền trẻ em. Một thách

thức lớn đặt ra đối với các phương tiện truyền thông đại chúng nói chung là

phải làm sao để trẻ em được hưởng lợi cao nhất, nhiều nhất từ các ấn phẩm

báo chí. Và trong đó việc tạo điều kiện để các em nhỏ được trực tiếp tham gia

trên các phương tiện truyền thông đại chúng, giúp cho trẻ phát huy được hết

6

khả năng cũng như quyền được tham gia của mình là một trong những vấn đề

được quan tâm hàng đầu hiện nay của các nhà báo và những người quan tâm

đến trẻ em.

So với thế giới, chúng ta tự hào có một hệ thống báo chí dành cho trẻ

em với đa thể loại, hình thức và có một đội ngũ nhà báo cho trẻ em khá đông

đảo. Hơn thế nữa, bước đầu chúng ta đã có những mô hình thí điểm trẻ em

làm báo cho trẻ em nhằm đáp ứng sâu hơn nữa nhu cầu thông tin của chính

lứa tuổi các em. Tuy vậy, cũng phải thừa nhận rằng chúng ta vẫn còn rất

nhiều điều cần phải bàn về việc làm báo cho trẻ em như thế nào cho hay hơn,

hấp dẫn hơn và đạt hiệu quả hơn.

Thực tế ở nước ta, báo chí liên quan đến đề tài trẻ em có hai loại: Báo

chí giành cho trẻ em và báo chí viết về trẻ em giành cho người lớn. Hướng

vào nhóm công chúng đối tượng khác nhau, báo chí viết về đề tài trẻ em, đều

vì trẻ em, nhưng có cách tiếp cận khác nhau, diện mạo và phong cách khác nhau.

Từ năm 2000 đến nay, với sự giúp đỡ về kỹ thuật và tài chính của Tổ

chức Cứu trợ trẻ em Thụy Điển (SCS), khoa Báo chí, Học viện Báo chí và

Tuyên truyền đã triển khai dự án “Nâng cao năng lực tác nghiệp của nhà

báo, nhà truyền thông vận động xã hội về đề tài trẻ em”. Hoạt động này bước

đầu đã góp phần quan trọng trong việc thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi

của các nhà báo, nhà truyền thông trong việc giải quyết vấn đề trẻ em thông

qua báo chí - truyền thông.

Tuy nhiên, sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở nước ta còn

nhiều vấn đề cần giải quyết; trong đó, thông qua báo chí - truyền thông để có

thể tác động vào nhận thức, thái độ và hành vi của các cấp các ngành, của

đông đảo nhân dân là việc làm hết sức quan trọng và cấp thiết.

Thực trạng báo chí cho trẻ em ở nước ta như thế nào là vấn đề có ý

nghĩa lý luận và thực tiễn lớn lao, cần nghiên cứu, tìm hiểu để có thống nhất

nhận thức, góp phần hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn làm cơ sở cho việc

xây dựng chính sách đẩy mạnh sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em

nước ta trong tình hình và điều kiện mới.

Kết quả nghiên cứu của công trình này sẽ cung cấp thêm tư liệu, lý luận

và kinh nghiệm thực tiễn về vấn đề báo chí cho trẻ em cho việc nghiên cứu,

giảng dạy báo chí, theo đề tài và theo nhóm đối tượng, tại các cơ sở đào tạo

báo chí hiện nay.

Đây chính là lí do chính để triển khai nghiên cứu đề tài khoa học Báo

chí cho trẻ em ở nước ta hiện nay.

7

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Hiện nay, hệ thống dữ liệu báo chí nước ta ở trong tình trạng thiếu thốn,

không thống nhất và thiếu hệ thống. Ngay cả báo cáo của Cục Báo chí - Bộ

Thông tin Truyền thông cũng chỉ tương đối khi nói về số đầu báo và tạp chí;

còn số chương trình phát thanh, truyền hình hầu như càng tương đối hơn. Liên

quan đến đề tài nghiên cứu báo chí cho trẻ em, mới chỉ có một số khóa luận

tốt nghiệp cử nhân báo chí tại khoa Báo chí, Học viện Báo chí và Tuyên

truyền. Bởi vì trong dự án về “Nâng cao năng lực tác nghiệp của nhà báo về

đề tài trẻ em trên cơ sở tăng cường tập huấn đào tạo về quyền trẻ em...” đã

có lồng ghép giảng dạy chuyên đề báo chí với trẻ em cho sinh viên các lớp

năm cuối. Do đó, kiến thức, kỹ năng về xử lý đề tài trẻ em của sinh viên được

trang bị, lòng yêu thích đề tài này cũng thúc đẩy các em nghiên cứu và tích

lũy kiến thức chuẩn bị ra trường.

Ở cấp độ khác, Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em (UBDSGD&TE)

trước đây cũng có một số đề tài nghiên cứu liên quan đến trẻ em, nhưng chỉ

tập trung vào vấn đề xã hội tác động đến trẻ em mà chưa có nghiên cứu nào

về báo chí cho trẻ em.

3. Giả thuyết nghiên cứu

Thứ nhất, nước ta là cộng đồng dân số trẻ, với gần 36% là trẻ em và đã

hình thành một hệ thống-diện mạo báo chí cho trẻ em với đủ các loại hình

(báo in, phát thanh, truyền hình, mạng điện tử) đã và đang cố gắng đáp ứng

nhu cầu tiếp nhận thông tin ngày càng đa dạng, phong phú, đã tích lũy được

những kinh nghiệm quý báu, nhưng còn những bất cập, cần được nghiên cứu

và tìm kiếm giải pháp tháo gỡ;

Thứ hai, có mối liên hệ giữa số lượng và chất lượng sản phẩm báo chí

cho trẻ em và không phải loại hình báo chí nào cho trẻ em cũng thỏa mãn và

đáp ứng được nhu cầu và mong đợi của trẻ. Mối liên hệ này cần được tổng

kết, phân tích một cách khoa học, chỉ ra nguyên nhân và tìm kiếm giải pháp

ứng xử phù hợp;

Thứ ba, trong một xã hội đang phát triển như nước ta, nhiều vấn đề liên

quan đến trẻ em đã được báo chí chú ý đúng mức, nhưng năng lực và hiệu quả

tác động do báo chí tạo ra có cả mặt tốt và chưa tốt, chưa được như mong đợi,

cần được nghiên cứu, tổng kết;

Thứ tư, đội ngũ nhà báo làm báo cho trẻ em hiện nay khá đông đảo,

nhiệt tình, trách nhiệm cao; nhưng quan điểm tiếp cân, kiến thức và kỹ năng

nghiệp vụ còn những bất cập;

8

Thứ năm, trên tổng thể, chúng ta đã thu được nhiều kinh nghiệm làm

báo cho trẻ em - kể cả hay và chưa hay, tốt và chưa tốt, cần được nghiên cứu,

phân tích khoa học để góp phần tổng kết thực tiễn hoạt động báo chí cho

nhóm công chúng đối tượng đặc thù là trẻ em.

4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích

Trên cơ sở khảo sát, nghiên cứu thực trạng báo chí cho trẻ em, phân tích

kinh nghiệm thực tế, công trình này nhằm mục đích:

- Cấp một cái nhìn tổng quan về diện mạo báo chí cho trẻ em ở nước ta

trong thời kỳ hội nhập phát triển;

- Phân tích kinh nghiệm thực tế-kể cả kinh nghiệm hay và chưa hay, tốt

và chưa tốt, làm báo cho nhóm công chúng-đối tượng đặc thù là trẻ em;

- Nêu lên những vấn đề cần quan tâm và bước đầu đề xuất giải pháp

phát triển loại báo chí này cũng như nâng cao năng lực và hiệu quả tác động

của nó đối với xã hội nói chung, nhóm công chúng đối tượng là trẻ em nói riêng.

4.2. Nhiệm vụ

- Phác thảo diện mạo báo chí cho trẻ em ở nước ta hiện nay;

- Tìm hiểu khả năng tiếp cận của trẻ em với các phương tiện truyền

thông đại chúng nói riêng và báo chí nói riêng;

- Tìm hiểu mức độ đáp ứng nhu cầu thông tin và mức độ hài lòng của

trẻ em với hình ảnh mình trên các phương tiện truyền thông đại chúng, từ đó

đưa ra một số nhận xét về hiệu quả tác động của truyền thông đối với trẻ em;

- Phân tích kinh nghiệm nghề nghiệp về hoạt động báo chí cho trẻ em

hiện nay; và

- Phát hiện những vấn đề đặt ra, đề xuất giải pháp kiến nghị khoa học

nhằm phát triển và nâng cao năng lực, hiệu quả tác động của báo chí cho trẻ em.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

5.1. Đối tượng nghiên cứu

- Các ấn phẩm báo chí cho trẻ em;

- Đề tài trẻ em, cách thức viết cho trẻ em trên báo chí;

- Mô hình trẻ em viết báo cho trẻ em thông qua câu lạc bộ Phóng viên nhỏ;

- Mức độ đáp ứng nhu cầu của các loại hình báo chí cho trẻ em.

5.2. Đối tượng khảo sát của đề tài nghiên cứu này là một số ấn phẩm

báo chí cho trẻ em, tức là sán xuất cho trẻ em tiếp nhận, hưởng thụ, như báo

9

Thiếu niên Tiền phong, Hoa học trò, nhóm báo Khăn quàng đỏ (thành phố Hồ

Chí Minh), chương trình phát thanh thiếu niên của Đài Tiếng nói Việt Nam,

Đài Truyền hình Việt Nam và một số website cho trẻ em.

5.3. Phạm vi nghiên cứu

Do thời gian và điều kiện cho phép, phạm vi nghiên cứu của đề tài này

được bao quát bốn loại hình báo chí là báo in, báo phát thanh, truyền hình và

báo mạng điện tử. Đối tượng khảo sát giới hạn ở một số nhóm báo như báo

Thiếu niên Tiền phong, báo Khăn quàng đỏ, báo Hoa học trò, Ban Phát thanh

Thanh, thiếu niên Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam,

website http://www.cmvn.org.vn và các tác phẩm đoạt giải “Nhà báo với trẻ

em Việt Nam”, một số câu lạc bộ phóng viên nhỏ. Thời gian khảo sát trong

năm 2007.

6. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận nghiên cứu đề tài dựa vào hệ thống quan điểm của

Đảng và Nhà nước ta về báo chí và vai trò của nó trong xã hội, về trẻ em và

sự nghiệp bảo vệ, giáo dục và chăm sóc trẻ em. Trong đó bao gồm cả hệ

thống quan điểm được thể hiện trong văn kiện Đảng, các văn bản pháp luật

liên quan đến trẻ em; trong đo chú trọng cách tiếp cận vấn đề trẻ em dựa trên

quyền trẻ em.

Các văn kiện pháp lý quốc tế như Công ước quốc tế về quyền trẻ em và

các văn bản hướng dẫn, các tài liệu chia sẻ của các tổ chức quốc tế và của các

nước có hoàn cảnh và trình độ gần gũi với nước ta.

Từ sự vận dụng các hướng tiếp cận xã hội học, các phương pháp nghiên

cứu chung của khoa học xã hội-nhân văn, công trình chú trọng các phương

pháp sau đây:

- Phương pháp phân tích tài liệu được sử dụng để nghiên cứu các văn

kiện Đảng, văn bản pháp luật có liên quan; phân tích các số liệu thống kê,

phân tích các văn bản, đọc và so sánh những tài liệu khoa học có liên quan

đến đề tài nghiên cứu.

- Phương pháp phỏng vấn sâu: Thực hiện gặp gỡ và phỏng vấn sâu một

số nhà báo chuyên làm báo cho trẻ em, các phóng viên nhỏ và những đối

tượng liên quan vấn đề nghiên cứu.

- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (an-két) chủ yếu được dùng

nghiên cứu các nhà báo và nhóm đối tượng tiếp nhận ấn phẩm báo chí trẻ em.

- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm - nghiên cứu trường hợp trong quá

trình thực hiện dự án “Nâng cao năng lực tác nghiệp của đội ngũ nhà báo

về đề tài trẻ em dựa trên Công ước quốc tế về quyền trẻ em và pháp luật

10

Việt Nam có liên quan” của khoa Báo chí, Học viện Báo chí và Tuyên

truyền.

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Ý nghĩa khoa học

Báo chí và truyền thông đại chúng phát triển theo xu hướng vừa đại

chúng hóa vừa phi đại chúng hóa. Có nghĩa là, các ấn phẩm báo chí - truyền

thông vừa hướng tác động tới đông đảo công chúng xã hội, xã hội hóa rộng

rãi trên phạm vi không gian rộng lớn, lại vừa hướng mạnh vào các nhóm đối

tượng riêng biệt, ngày càng chuyên sâu. Như vậy, công chúng xã hội của báo

chí vừa phát triển như một tổng thế phức hợp với nhu cầu và nguyện vọng

phong phú, vừa bị chia nhỏ, bị phân tách ra từng nhóm nhỏ, bị lôi kéo vào

những ấn phẩm chuyên sâu với đề tài, phong cách thể hiện đặc thù.

Do vậy, có thể nói đây là công trình đầu tiên nghiên cứu báo chí giành

cho nhóm công chúng trẻ em nói riêng, cho nhóm công chúng xã hội chuyên

biệt theo nhóm tuổi nói chung. Cách tiếp cận này là xu hướng và yêu cầu phát

triển báo chí và công nghệ đào tạo báo chí hiện đại.

Với ý nghĩa ấy, công trình này mang đến một cái nhìn khoa học như là

phương pháp luận tiếp cận nghiên cứu báo chí hiện đại. và từ đó, có thể làm

cơ sở cho việc nghiên cứu báo chí cho các nhóm công chúng xã hội khác. Kết

quả thu nhận được có giá trị tham khảo cho việc triển khai nghiên cứu và đào

tạo, đào tạo lại đội ngũ nhà báo theo đề tài và theo nhóm đối tượng tác động.

Ý nghĩa thực tiễn

Việt Nam là nước có cộng đồng dân số trẻ, có gần 40% dân số là trẻ em.

Do vậy, trong khi vai trò, tác động và chi phối của báo chí đối với xã hội ngày

càng to lớn, việc nghiêm cứu báo chí cho trẻ em có ý nghĩa nhận thức vừa

khoa học vừa thực tiễn hết sức quan trọng. Khi tìm kiếm nguyên nhân và giải

pháp cho việc giải quyết các vấn đề liên quan đến trẻ em, nhất là trẻ em làm

trái pháp luật, hay trẻ em xung đột với pháp luật (trước đây gọi là trẻ em

phạm pháp, trẻ em phạm tội), người ta thường đề cập tới ba nhóm vấn đề liên

quan là gia đình, nhà trường và xã hội. Trong ba nhóm giải pháp mang tính

chủ thể ấy, báo chí tác động và chi phối đến tất cả và nhất là tác động đến trẻ

em. Do vậy, đề tài này được giải quyết sẽ có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn

đối với việc giải quyết vấn đề trẻ em hiện nay và mai sau:

- Là tài liệu tham khảo cho các cơ quan báo chí, các nhà báo, những

người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy báo chí trong quá trình hoạt

động, trong tác nghiệp cũng như trong giảng dạy và nghiên cứu báo chí.

11

- Giúp cho các cơ quan báo chí, đặc biệt là các toà soạn báo cho trẻ em

có những thay đổi để hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ của mình.

- Cấp một cái nhìn của trẻ em về báo chí và các phương tiện truyền

thông đại chúng hiện nay đồng thời cũng đưa ra một số kiến nghị và góp phần

tổng kết kinh nghiệm để có thể làm báo cho trẻ em tốt hơn trong tương lai.

8. Kết cấu của công trình

Ngoài phần mở đầu và kết luận, công trình được bố trí thành ba chương:

Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu trình bày

cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề báo chí cho trẻ em. Đó là hệ thống khái

niệm công cụ và phương pháp tiếp cận vấn đề, những quan điểm của Đảng và

Nhà nước, tư tưởng Hồ Chí Minh về trẻ em và báo chí cho trẻ em; là cơ sở

pháp luật liên quan đến trẻ em như Công ước quốc tế quyền trẻ em và pháp

luật Việt Nam có liên quan. Đồng thời, chương này cũng phân tích cơ sở thực

tiễn của vấn đề nghiên cứu.

Chương II: Trình bày hiện trạng báo chí cho trẻ em hiện nay, chủ yếu

phác thảo bức tranh tổng quát về diện mạo báo chí cho trẻ em, những vấn đề

đặt ra, kinh nghiệm tác nghiệp....

Chương III: Tập trung phân tích những vấn đề đặt ra và giải pháp

khuyến nghị nhằm tiếp tục nâng cao năng lực và hiệu quả tác động của báo

chí cho trẻ em trong tình hình và điều kiện mới.

12

Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN - THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Những khái niệm liên quan

1.1.1. Khái niệm trẻ em

a. Định nghĩa theo Công ước quốc tế

Tại điều 1, Công ước quốc tế về Quyền trẻ em của Liên Hợp Quốc quy

định: "Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp quốc

gia công nhận tuổi thành niên sớm hơn".

Định nghĩa này là sự nhắc lại điều đã nêu trong Tuyên ngôn về Quyền

trẻ em năm 1959: "Trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần được

bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước

cũng như sau khi sinh ra đời".

Theo Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hoá UNESCO và Quỹ Dân số

UNFA, "Trẻ em được xác định là người dưới 15 tuổi"

b. Định nghĩa theo pháp luật Việt Nam

Tại điều 1, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em của Việt Nam

(năm 1991) quy định: "Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi".

Còn trong Bộ luật Dân sự (năm 1995), một trong những bộ luật quan

trọng trong hệ thống Pháp luật nước ta, điều 20 có quy định: "Người từ đủ 18

tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên".

Như vậy, theo pháp luật Việt Nam thì khái niệm trẻ em và người chưa

thành niên có sự khác nhau. Theo định nghĩa này, về độ tuổi, trẻ em là công

dân Việt Nam dưới 16 tuổi. Như vậy, các khái niệm trẻ em, chưa thành niên

có sự khu biệt. Sự khu biệt này rất phức tạp, xét từ các bình diện pháp lý (luật

hình sự), tâm lý (thành niên, chưa thành niên) và xã hội (nghĩa vụ và quyền

lợi xã hội). Theo luật lao động, trẻ em đủ 14 tuổi có quyền được lao động.

Do điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội nước ta còn trong quá trình phát

triển và phát triển trình độ thấp, cho nên ngay cả định nghĩa về trẻ em trên các

bình diện khác nhau cũng khá phức tạp.

Việc phân biệt về khái niệm như trên dẫn đến những khó khăn trong

cách tiếp cận và giải quyết vấn đề.

Trên bình diện báo chí - truyền thông, với tư cách là nhóm công chúng

xã hội, đối tượng tác động, lôi kéo và chi phối, chúng tôi đề xuất khái niệm

trẻ em là người dưới 18 tuổi.

13

1.1.2. Khái niệm báo chí

Theo Từ điển tiếng Việt, báo chí là báo và tạp chí xuất bản một cách

định kì. (Từ điển Tiếng Việt 2006, Hoàng Phê chủ biên, Viện Ngôn ngữ).

Theo luật báo chí Việt Nam, báo chí là phương tiện thông tin đại chúng

thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng,

của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội; là diễn đàn của nhân dân (Luật Báo

chí năm 1989, trang 192).

Báo chí theo nghĩa hẹp, là báo và tạp chí xuất bản định kỳ. Theo nghĩa

rộng, báo chí là những sản phẩm xuất bản định kỳ hoặc thường xuyên, hướng

tác động vào đông đảo công chúng xã hội nhằm tập hợp và thuyết phục đông

đảo nhân dân tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế-xã hội đã và đang xảy ra.

Với trẻ em, báo mạng điện tử càng có vai trò đặc biệt quan trọng. Các

nhà giáo dục trên thế giới thì than phiền: Chỉ cần 1 đoạn phim phản giáo dục

trên YouTube (www.youtube.com), là “đi toi” cả vài năm công sức giáo dục

của hệ thống giáo dục nhà trường. Thực tế này đang tạo ra những dư luận cản

trở việc phát triển các trang báo điện tử (Online Journalism) và các trang tin

điện tử (Website) về đề tài trẻ em- một kênh thông tin có ý nghĩa vô cùng

quan trọng trong đời sống trẻ em thời hội nhập. Đây cũng là thách thức với

việc xây dựng các sản phẩm truyền thông đáp ứng quyền được tiếp cận thông

tin thích hợp của trẻ em- trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng

Theo điều 1, chương 1, Nghị định số 51/2002/NĐ-CPcủa Chính phủ

ngày 26/4/2002, quy định chi tiết thi hành Luật báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung

một số điều của Luật Báo chí: “Báo điện tử là tên gọi loại hình báo chí thực

hiện trên mạng thông tin máy tính (Internet, Intranet)”. “Trang tin điện tử

(website) là loại hình bản tin thực hiện trên mạng Internet” (Quy chế quản lý

và cấp giấy phép cung cấp thông tin, thiết lập trang tin điện tử trên Internet.

Ban hành kèm quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT 10/10/2002 ).

Ngày nay, khi khoa học công nghệ, nhất là công nghệ thông tin phát triển

như vũ bão, khái niệm báo chí gắn liền với khái niệm truyền thông đại chúng.

Truyền thông đại chúng là hệ thống các phương tiện truyền thông

hướng tác động vào đông đảo công chúng xã hội (nhân dân các vùng miền,

cả nước, khu vực hay toàn bộ thế giới) nhằm thông tin, chia sẻ, nhằm lôi kéo

và tập hợp, giáo dục thuyết phục và tổ chức đông đảo nhân dân tham gia giải

quyết các vấn đề kinh tế - xã hội đã và đang đặt ra.

Trong khái niệm nêu trên đây có thể thấy vai trò trung tâm, nền tảng của

báo chí trong hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng. Báo chí có

vai trò chi phối, quyết định sức mạnh, tính chất và khuynh hướng của truyền

14

thông đại chúng. Cho nên, trong nhiều trường hợp, người ta dùng thuật ngữ

báo chí để chỉ các phương tiện truyền thông đại chúng; mặt khác, nói đến

truyền thông đại chúng, trước hết là nói đến báo chí.

Từ những cách hiểu trên đây có thể hiểu báo chí cho trẻ em là những

ấn phẩm báo chí (bao gồm báo in, chương trình phát thanh, chương trình

truyền hình, báo mạng điện tử) dành cho nhóm công chúng - đối tượng dưới

18 tuổi, nhằm tuyên truyền những chủ trương chính sách của Đảng và nhà

nước về các vấn đề trẻ em và diễn đàn, sân chơi cho trẻ em, phản ánh đời

sống sinh hoạt và đời sống tinh thần của trẻ em, đáp ứng nhu cầu học tập và

giải trí cho các em, góp phần hướng dẫn, giáo dục và hình thành nhân cách,

diện mạo văn hóa cho trẻ em.

Báo chí cho trẻ em - sản phẩm báo chí giành cho nhóm công chúng-đối

tượng trẻ em - những người dưới 18 tuổi, khu biệt với báo chí về trẻ em. Báo

chí về trẻ em giành cho hai nhóm công chúng đối tượng: báo chí cho trẻ em

và báo chí viết về trẻ em giành cho người lớn. Từ sự khu biệt này, trong công

trình này, chúng tôi tập trung nghiên cứu báo chí cho trẻ em.

1.2. Công chúng trẻ em với báo chí

1.2.1. Nhóm công chúng trẻ em

Công chúng nói chung là một khái niệm được làm quen và sử dụng ở

nước ta trong mới khoảng 20 năm nay và được dùng trên nhiều bình diện

khác nhau. Công chúng báo chí có thể được hiểu là nhóm đối tượng chịu tác

động trực tiếp, giản tiếp hoặc có khả năng ảnh hưởng, tác động của báo chí.

Có công chúng trực tiếp và công chúng gián tiếp; công chúng mục tiêu và

công chúng liên quan... Mỗi nhóm công chúng có nhu cầu, mối quan tâm và

lợi ích riêng trong việc tiếp nhận sản phẩm báo chí-truyền thông. Công chúng

báo chí không chỉ là đối tượng tác động, đối tượng điều chính,... mà cón là

đối tác quan trọng và là tiêu chí quan trọng nhất đánh giá năng lực và hiệu

quả tác động của báo chí.

Trong mối quan hệ với báo chí và TTĐC, trẻ em được nhìn nhận dưới

nhiều góc độ. Trẻ em vừa là người tiếp nhận vừa là người sản xuất các sản

phẩm báo chí, vừa là chủ thể vừa là đối tượng, vừa là nạn nhân vừa là người

chiến thắng, vừa là người học được các sai lầm trong quá khứ vừa là người

thầy giáo cho tương lai. Trẻ em cũng được tiếp cận từ nhiều phương diện-nhìn

từ kinh tế: trẻ em cũng là đối tượng cần tiếp thị như một nhóm lớn khách hàng

giàu tiềm năng tiêu thụ; nhìn từ văn hoá: trẻ em là nhúm cư dõn cần được

truyền thụ, tiếp nhận hệ thống giá trị văn hoá của quê hương đất nước, của

dân tộc; nhìn từ giáo dục: trẻ em là nhóm lớn công chúng, là lực lượng cần

15

được giáo dục nhân cách làm người và đào tạo để trở thành lực lượng lao

động xã hội phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.

Mỗi người chúng ta đều đã trải qua cuộc đời trẻ em trong những hoàn

cảnh kinh tế xã hội nhất định. Nhưng để hiểu được trẻ em thì không đơn giản.

Trẻ em là nhóm công chúng xã hội đặc thù. Ở Việt Nam, nhóm công chúng

này chiếm đến gần 40% dân số và luôn được mọi người quan tâm với sự nhạy

cảm, tình cảm đặc biệt: nhóm công chúng sẽ làm chủ xã hội trong tương lai

gần và chi phối mọi lực lượng lao động xã hội ở hiện tại.

Làm thế nào để trong mỗi tác phẩm cho trẻ em chúng ta nói đúng, nói

thật, nói một cách sinh động về tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, ước mơ của

trẻ em? Làm thế nào để tránh tình trạng nói hộ, nói thay, nói bịa ra những

điều mà trẻ em không nói, không nghĩ và không muốn? Trẻ em là những con

người đang hình thành nhân cách từng ngày, rất cần được tôn trọng, nâng niu,

chăm sóc và bảo vệ. Do đó, chúng ta càng cần tìm hiểu, nghiên cứu nhóm

“công chúng tí hon” của mình.

Công chúng trẻ em là nhóm lớn xã hội có “thế giới “ riêng của mình, cả

về thể chất, tâm-sinh lý, nhận thức, văn hoá cùng với nhu cầu, nguyện vọng

và cách thể hiện chúng. Nhóm công chúng này chịu sự chi phối mạnh mẽ của

môi trường sống, điều kiện sinh sống. Do đó, về nguyên tắc, cũng cần phải

nghiên cứu toàn diện và cơ bản. Nhất là đặt nhóm công chúng trẻ em trên cơ

sở các quyền của Công ước Quốc tế và luật pháp nước ta, chẳng hạn trên cơ

sở thừa nhận và bảo đảm cho các em có quyền:

+ Bày tỏ ý kiến, nhất là về các quyết định có ảnh hưởng đến trẻ em;

+ Tự do tư tưởng, thể hiện tính ngưỡng, tôn giáo;

+ Có đời sống riêng tư và có quyền được vui chơi;

+ Thành lập câu lạc bộ và tổ chức riêng của trẻ em;

+ Công khai ý kiến và thông tin riêng của mình.

1.2.2. Đặc điểm của công chúng trẻ em

a. Về nhân khẩu học - xã hội

Tìm hiểu các thông số về lứa tuổi, giới tính, trình độ văn hoá, địa bàn

sống, điều kiện và mức sống, phong tục tập quán, dân tộc, tôn giáo… Trong

khoa học xã hội học, người ta gọi đó là những biến số độc lập, những biến số

này có tính ổn định cao, ít thay đổi và đây không phải là mục tiêu trực tiếp

của hoạt động báo chí-truyền thông. Những những yếu tố này làm cơ sở để

tìm hiểu các thông số khác. Ví dụ, ở vùng nông thôn, miền núi - nhất là những

nơi có đời sống chưa phát triển, trẻ em thường ngại giao tiếp, khó hỏi chuyện,

16

ít cởi mở; hay có tâm lý tự ti; thường có những mơ ước gần gũi, giản dị. Trẻ

em nông thôn vùng ven đô nhanh nhạy và hoạt hơn; trẻ ở đô thị cởi mở, nhạy

cảm hơn, có kỹ năng giao tiếp tốt hơn. Sự khác biệt về nhóm tuổi cũng dẫn

đến sự khác biệt khá xa về hoạt động và nhân cách.

“Trẻ dưới 2 tháng tuổi, hoạt động chủ yếu là ăn, ngủ phối hợp với các

phản xạ, động tác chỉ bột phát; trẻ dưới 12 tháng tuổi, chủ yếu hoạt động

giao lưu cảm xúc trực tiếp, phát triển các động tác biểu cảm, cộng sinh cảm

xúc, từ đó có thể có “lòng tin” hay mất “lòng tin” khi có hay không có sự

chăm sóc đầy đủ của người lớn, nhất là người mẹ. Do đó, vai trò người mẹ có

ý nghĩa quan trọng trực tiếp... Nhưng trẻ em tuổi tiểu học (từ 6-12 tuổi) thì

khả năng tư duy và ngôn ngữ của trẻ phát triển nhanh hơn, hiếu động, ham

tìm tòi hiểu biết chân lý, khám phá trí tuệ; có nhu cầu giao tiếp, phát triển tình

bạn... và bắt đầu có ý thức về hành vi đạo đức. Ngoài quan hệ gia đình, trẻ bắt

đầu ưa thích quan hệ bạn bè và chịu ảnh hưởng của mối quan hệ này. Ông cha

ta có câu “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. Hoặc thiếu niên (từ 11 đến 15

tuổi) thì khả năng trí tuệ phát triển mạnh, nhất là tư duy lô gích, tư duy hình

tượng; ngôn ngữ nói và viết hoàn thiện khá tốt; về tâm lý, đây là giai đoạn dậy

thì, ưa thích quan hệ tâm tình, bè bạn, giao lưu kết nối các nhóm bạn thân và

nhất là có khả năng xác định lại các mối quan hệ xã hội, cải tổ nhân cách,

định hình bản ngã và ý thức tự tu dưỡng; trẻ thích có ý kiến độc lập, muốn

được đề cao và tôn trọng...; các quan hệ bạn bè, xã hội ngày càng có ý nghĩa

quan trọng ảnh hưởng tới nhân cách của trẻ; báo chí và các phương tiện

truyền thông có vai trò rất quan trọng đối với việc hình thành nhân cách của

trẻ.” (Sổ tay phóng viên Báo chí với trẻ em, Nguyễn Văn Dững chủ biên, nxb

Lao động, HN.2001, tr.59 -65).

Ngoài những khác biệt do nhóm tuổi, điều kiện sinh sống và mức sống,

hoàn cảnh gia đình,... cũng chi phối không ít đến đời sống tinh thần của trẻ

em. Giáo dục nhân cách cho trẻ bắt đầu từ xây dựng nền nếp gia đình trong sự

phối hợp với xã hội và báo chí-truyền thông đại chúng sẽ có hiệu quả hơn.

Nghiên cứu, đo các biến độc lập nên tiến hành định kỳ ở các vùng, miền

và những thông số này được sử dụng không chỉ một hai lần trong thời gian ngắn.

b. Nhận thức của trẻ em về những vấn đề chuẩn bị nói tới, chuẩn bị

truyền thông

Trong xã hội học, người ta gọi đây là những biến số phụ thuộc - những

mục tiêu mà chiến dịch truyền thông, báo chí nhằm làm thay đổi. Ví dụ, trước

khi tiến hành chiến dịch thông tin giáo dục về sức khoẻ sinh sản (SKSS) vị

thành niên, chúng ta nên tìm hiểu nhận thức, hiểu biết của trẻ em nhóm tuổi

này đối với vấn đề SKSS (như về tình bạn, tình yêu và các tình huống ứng

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!