Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Bao cao nc mmt 18 12 2017 (1)
MIỄN PHÍ
Số trang
71
Kích thước
369.0 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1102

Bao cao nc mmt 18 12 2017 (1)

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Phần thứ nhất: GIỚI THIỆU CHUNG

1. Lời nói đầu

Trước tiên tôi xin trân trọng cảm ơn Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Vĩnh

Phúc đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn

thành báo cáo.

Tôi trân trọng cảm ơn Sở Y tế Vĩnh Phúc tạo điều kiện để tôi thực nghiện

nghiên cứu và đã thành lập Hội đồng khoa học để nghiệm thu, góp ý để tôi hoàn

thiện báo cáo nghiên cứu.

Xin trọng cảm ơn các đồng nghiệp, cán bộ nhân viên Trung tâm phòng,

chống HIV/AIDS tỉnh Vĩnh Phúc, Cơ sở điều trị Methadone của huyện Lập

Thạch, Bình Xuyên và Vĩnh Tường đã nhiệt tình phối hợp trong quá trình tổ

chức, điều tra thu thập số liệu phỏng vấn đối tượng để có nguyên liệu đầy đủ,

chính xác, khách quan và thực tế cho nghiên cứu và luận văn được thực hiện

đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng.

Tình hình tệ nạn ma túy trong tỉnh diễn biến phức tạp, khó kiểm soát,

người NCMT ngày càng trẻ hóa ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế, văn hóa và

chính trị của tỉnh. Tỷ lệ nhiễm HIV do lây truyền qua đường máu tại Vĩnh Phúc

còn cao chiếm 56,7% mà chủ yếu là do tiêm chích ma túy (kết quả giám sát của

Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS năm 2013). Chương trình phòng, chống ma

túy và giáo dục cai nghiện cho người sử dụng ma túy trên địa bàn tỉnh Vĩnh

Phúc trong những năm qua đã tích cực triển khai. Tuy nhiên tình hình tái nghiện

trên nhóm người sau cai vẫn còn cao. Do đó, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành

Kế hoạch 6572/KH-UBND ngày 30/10/2014 về việc triển khai điều trị thay thế

nghiện chất dạng thuốc phiện bằng Methadone trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc bắt

đầu từ tháng 11/2014.

Vậy, sau hơn hai năm triển khai điều trị thay thế nghiện các chất dạng

thuốc phiện bằng thuốc Methadone (điều trị Methadone) thì thực trạng điều trị

Methadone trên địa bàn tỉnh như thế nào? Các giải pháp để nâng cao hiệu quả

điều trị Methadone là gì? Để trả lời được câu hỏi đó và giúp cho ngành y tế Vĩnh

Phúc có được bằng chứng khoa học về vấn đề này, từ đó có những định hướng

chiến lược và đề xuất Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành kế hoạch triển khai điều trị

Methadone hiệu quả trong giai đoạn tiếp theo.

2. Tên đề tài: Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu

quả điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone

trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.

3. Chủ nhiệm đề tài: Bác sỹ Chuyên khoa II. Lê Quang Sơn

4. Cơ quan thực hiện: Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS tỉnh Vĩnh

Phúc

5. Cấp quản lý: Cấp tỉnh

6. Cơ quan phối hợp thực hiện: Không có

7. Thời gian thực hiện: 01 năm (tháng 01/2017 đến tháng 12/2017)

8. Kinh phí thực hiện:

- Tổng số: 95,000,000 đồng, trong đó:

- Ngân sách khoa học: 95,000,000 đồng

- Nguồn khác: 0 đồng

9. Lý do thực hiện đề tài:

Trong nhiều năm qua, tệ nạn ma túy và hoạt động của các loại tội phạm

ma túy trên thế giới vẫn đang diễn biến phức tạp. Theo báo cáo “Tình hình ma

túy thế giới năm 2014” của Cơ quan phòng chống ma tuý và tội phạm Liên Hợp

Quốc (UNODC) có khoảng 243 triệu người sử dụng ma túy trên toàn cầu, tương

đương với 5% dân số thế giới ở độ tuổi từ 15-64 đã từng sử dụng các chất ma

túy trái phép trong năm qua. Trong khi đó số người lệ thuộc ma túy chiếm

khoảng 27 triệu người, xấp xỉ 0,6% dân số trưởng thành trên toàn cầu hay cứ

mỗi 200 người thì có một người lệ thuộc vào ma túy. Theo báo cáo của các nước

thành viên của UNODC, số người nghiện chích ma túy (NCMT) hiện là 12,7

triệu người, tương ứng với tỷ lệ 0,27% đối với dân số trong độ tuổi 15-64, ước

tính số người TCMT bị nhiễm HIV là 1,7 triệu người [2], [29].

Theo báo cáo của Bộ LĐ-TBXH, tính đến tháng 12/2016, cả nước có

204.377 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý. Gần 90% các quận, huyện của

các tỉnh thành phố và 60% số xã, phường, thị trấn đều đã có người nghiện ma

2

túy [3]. Riêng tại Vĩnh Phúc, theo báo cáo của Công an tỉnh, số người nghiện ma

túy tính đến 6/2016 toàn tỉnh có 1707 người nghiện ma túy có đang có hồ sơ

quản lý [14]. Phần lớn những người NCMT có hành vi tiêm chích không an toàn

như dùng chung bơm kiêm tiêm. Điều này góp phần làm lây lan HIV, viêm gan

B và C một cách nhanh chóng và quy mô lớn trong quần thể những người

NCMT và cả cộng đồng. Theo ước tính, trung bình có 13,1% trong tổng số

người NCMT trên thế giới bị nhiễm HIV [29]. Có 45% trên tổng số người

nhiễm HIV tại Việt Nam là những người tiêm chích ma tuý [7]. Những chương

trình can thiệp trên nhóm quần thể NCMT góp phần quan trọng vào việc giảm

tác hại của hành vi tiêm chích không an toàn, đồng thời giảm gánh nặng toàn

cầu về kinh tế, chính trị và an ninh xã hội [30].

Chương trình điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng

thuốc Methadone (điều trị Methadone) đã được triển khai ở nhiều nước trên thế

giới như Úc, Mĩ, Hà Lan, Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc…[1], [13]. Đây là một

chương trình điều trị lâu dài, có kiểm soát, giá thành rẻ, được sử dụng theo

đường uống, dưới dạng siro nên giúp dự phòng các bệnh lây truyền qua đường

máu như HIV, viêm gan B, C, đồng thời giúp người bệnh phục hồi chức năng

tâm lý, xã hội, lao động và tái hoà nhập cộng đồng [4]. Chương trình được chính

thức triển khai thí điểm tại Việt Nam từ tháng 4/2008 tại thành phố Hài Phòng

và thành phố Hồ Chí Minh. Tính đến 3/2017, chương trình đã được triển khai tại

63 tỉnh/thành phố với 280 cơ sở, điều trị cho 51,318 bệnh nhân (BN) [7].

Vĩnh Phúc hiện đang có 4 Cơ sở Methadone triển khai từ tháng 3/2015.

Tính đến 30/8/2017, cơ sở đã tiếp nhận và điều trị cho 138 BN. Mặc dù trên thế

giới cũng như tại Việt Nam đã có các nghiên cứu đánh giá kết quả chương trình

điều trị Methadone, tuy nhiên, vẫn cần có một nghiên cứu đánh giá chương trình

điều trị Methadone tại Vĩnh Phúc sau hơn hai năm triển khai nhằm cung cấp

những bằng chứng thiết thực về kết quả mà chương trình mang lại cho BN, gia

đình BN và cho toàn xã hội, nâng cao hiệu quả hoạt động của chương trình, cải

thiện chất lượng phục vụ BN, đồng thời đề xuất những giải pháp phù hợp để đạt

được chỉ tiêu điều trị cho bệnh nhân mà Chính phủ giao cho tỉnh. Vì thế đơn vị

3

tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp nâng

cao hiệu quả điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc

Methadone trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc”.

10. Tổng quan tình hình nghiên cứu

10.1. Một số khái niệm

Trong Hướng dẫn điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng

thuốc Methadone vào năm 2010, Bộ Y tế đã thống nhất đưa ra một số khái niệm

như sau [4]:

- Chất ma tuý: là các chất gây nghiện được quy định trong các danh mục

do Chính phủ ban hành.

- Chất dạng thuốc phiện (opiats, opioid): là tên gọi chung cho nhiều chất

như thuốc phiện, morphine, heroin, methadone, buprenorphine, codein,

pethidine, fentanyle, có biểu hiện lâm sàng tương tự và tác động vào cùng điểm

tiếp nhận tương tự ở não.

- Người nghiện ma túy: là người sử dụng chất ma tuý và bị lệ thuộc vào

các chất này.

- Dung nạp: là tình trạng đáp ứng của cơ thể với một chất, được biểu hiện

bằng sức chịu đựng của cơ thể ở liều lượng nhất định của chất đó. Khả năng

dung nạp phụ thuộc vào cơ địa và tình trạng của cơ thể. Khi khả năng dung nạp

thay đổi, cần thiết phải thay đổi liều lượng của chất đã sử dụng để đạt được cùng

một hiệu quả.

- Cai nghiện: là ngừng sử dụng hoặc giảm đáng kể chất ma túy mà người

nghiện thường sử dụng (nghiện) dẫn đến việc xuất hiện hội chứng cai và vì vậy

người bệnh cần phải được điều trị.

- Quá liều: là tình trạng sử dụng một lượng chất ma túy lớn hơn khả năng

dung nạp của cơ thể ở thời điểm đó, đe dọa tới tính mạng của người sử dụng nếu

không được cấp cứu kịp thời.

10.2. Tình hình sử dụng ma túy và dịch HIV/AIDS

10.2.1. Tình hình sử dụng ma túy và dịch HIV/AIDS trên thế giới

4

Theo báo cáo của Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm của Liên Hợp

Quốc (UNODC), tính đến tháng 6/2015, Ước tính có khoảng 246 triệu người,

tương đương với khoảng hơn 5% dân số toàn thế giới trong độ tuổi từ 15 đến 64

đã từng sử dụng ma túy trái phép. Hiện có khoảng 32,4 triệu người sử dụng các

chất ma túy chứa opiods và opiates như heroin và thuốc phiện – tương ứng với

0,7% trong dân số là người trưởng thành trên thế giới. Có khoảng 1,65 triệu

người tiêm chích ma túy đang phải sống chung với HIV. Các tổ chức UNODC,

UNAIDS, WB và WHO dựa trên các dữ kiện mới nhất đã cùng nhau ước tính số

lượng người TCMT trên thế giới khoảng 12.7 triệu người (44,4%). Đặc biệt, khu

vực Đông và Đông Nam châu Âu có tỉ lệ người TCMT cao hơn 4.6 lần so với tỉ

lệ trung bình toàn cầu [29]. Tại khu vực châu Á Thái Bình Dương ước tính có

khoảng 3.8 triệu người TCMT. Trong số này có 2.5 triệu người đang sinh sống

tại Trung Quốc [28]. Tuy nhiên, nếu xét về số lượng người TCMT thực tế thì 3

nước Liên Bang Nga, Trung Quốc và Hoa Kỳ chiếm 46% tổng số người TCMT

trên toàn thế giới [29].

Tử vong là hậu quả nghiêm trọng nhất do hành vi sử dụng ma túy mang

lại. Ước tính có khoảng 199.000 trường hợp tử vong liên quan đến ma túy đã

được báo cáo trong năm 2014. Sử dụng ma túy quá liều là nguyên nhân chính

dẫn đến các trường hợp tử vong có liên quan đến ma túy trên toàn cầu. Bên

cạnh đó, hành vi TCMT không an toàn như việc dùng chung bơm kim tiêm có

thể gây ra những tác động nghiêm trọng đối với sức khỏe, nguy cơ dẫn đến các

bệnh nhiễm trùng đường máu như HIV, viêm gan B và viêm gan C [29]. Một

nghiên cứu gần đây về gánh nặng bệnh tật toàn cầu từ việc lệ thuộc ma túy đã

ước tính trong năm 2010 đã có 1,980,000 năm sống bị mất đi do hành vi tiêm

chích ma túy không an toàn dẫn đến nhiễm HIV, đồng thời có 494,000 năm

sống bị mất đi trên toàn thế giới do viêm gan C [21].

Trong số 12,7 triệu người TCMT trên thế giới hiện nay, có khoảng 13,1%

đang sống chung với HIV. Các tổ chức UNODC, WB, WHO, UNAIDS đã cùng

nhau ước tính trên toàn cầu có khoảng 1,7 triệu người TCMT bị nhiễm HIV. Xét

về mặt số lượng thực tế, bốn quốc gia Trung Quốc, Pakistan, Liên Bang Nga và

5

Hoa Kỳ cộng lại đã chiếm 62% những người TCMT nhiễm HIV trên toàn cầu

[29]. Tại nhiều quốc gia, tỉ lệ nhiễm HIV trong nhóm người TCMT cao hơn

nhiều lần so với tỉ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng. Báo cáo của UNAIDS năm

2012 chỉ ra rằng tỉ lệ nhiễm HIV trong nhóm người TCMT cao hơn ít nhất 22

lần so với dân số nói chung ở 49 quốc gia, va cao hơn ít nhất 50 lần ở 11 quốc

gia [27]. Tại Liên Bang Nga, các chính sách nhà nước không ủng hộ cho việc

cung cấp dịch vụ điều trị thay thế CDTP cho những người TCMT thì tỉ lệ nhiễm

HIV trong số những người TCMT ước tính trong khoảng 18-31%. Ngược lại,

các quốc gia ở Tây và Trung Âu có mật độ bao phủ cao các dịch vụ can thiệp

giảm tác hại như phân phát, trao đổi bơm kim tiêm sạch, chương trình điều trị

thay thế nghiện các CDTP… dẫn đến số ca nhiễm HIV mới thấp [28].

10.2.2. Tình hình sử dụng ma túy và dịch HIV/AIDS tại Việt Nam

Sử dụng thuốc phiện nổi lên là vấn đề xã hội chủ yếu ở Việt Nam trong

những năm 90. Theo báo cáo của Bộ LĐ-TBXH, số người nghiện ma túy đang

gia tăng trong 3 năm qua tuy nhiên tốc độ tăng khá chậm. Năm 2012 là 172.000

(tăng 8,57%); năm 2013 là 181.396 người (tăng 5,46%); 8 tháng đầu năm 2014,

tăng 0,8%. Trong số người nghiện có 96% nam giới, 50% ở độ tuổi 16 - 30,

0,02% dưới 16 tuổi. Thống kê cho thấy có gần 90% các quận, huyện của các

tỉnh thành phố và 60% số xã, phường, thị trấn đều đã có người nghiện ma túy.

Cả nước hiện có 142 trung tâm cai nghiện đang quản lý và cai nghiện cho

32.200 người. Hầu hết các học viên đều phải chấp hành cai nghiện đủ 24 tháng

cai nghiện tại trung tâm [3], [10], [18].

Sử dụng ma túy qua đường tiêm chích là nguyên nhân hàng đầu làm gia

tăng các trường hợp nhiễm mới HIV tại Việt Nam. Tính hết tháng 5 năm 2017,

số người nhiễm HIV hiện đang còn sống 210,000 số trường hợp, đã có 90,882

trường hợp tử vong do AIDS. Trong 5 tháng đầu năm 2017, cả nước đã xét

nghiệm phát hiện nhiễm HIV mới là 3,546 trường hợp giảm 11% so với cùng kỳ

năm 2016, số tử vong khoảng 641 ca so với cùng kỳ số bệnh nhân AIDS giảm

21%, số tử vong giảm 34%. Như vậy nhìn chung dịch HIV vẫn đang có xu

6

hướng giảm ở 3 tiêu chí là số người nhiễm mới HIV, số người chuyển sang giai

đoạn AIDS và số người tử vong do AIDS. [5].

Kết quả giám sát phát hiện năm 2016 cho thấy, tỷ lệ người nhiễm HIV là

người TCMT vẫn chiếm chủ yếu, chiếm 39,2%, Tiếp đến là những người quan

hệ tình dục khác giới chiếm 18%. Các nhóm còn lại chiếm tỉ lệ thấp [6].

Kết quả sơ bộ giám sát trọng điểm HIV trong năm 2016 cho thấy tỷ lệ

nhiễm HIV trong nhóm TCMT tiếp tục có xu hướng giảm, năm 2016 tỷ lệ này là

10,3% giảm 1,3% so với năm 2015 (11,6%). Tất cả các vùng trong cả nước tỷ lệ

nhiễm HIV trong nhóm TCMT đều giảm. Tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm TCMT

tập trung cao ở các tỉnh ở khu vực ở Miền núi Phía bắc và đồng bằng Bắc Bộ và

Tp. Hồ Chí Minh [6].

Tính đến 31/03/2017, cả nước có 280 cơ sở điều trị Methadone tại 63 tỉnh,

thành phố, điều trị cho 51,318 người bệnh, đạt 63,32% so với mục tiêu đề ra.

10.2.3. Tình hình sử dụng ma túy và dịch HIV/AIDS tại Vĩnh Phúc

Tính đến ngày 15/11/2017, nhìn chung, tình hình tội phạm, tệ nạn ma tuý

trên địa bàn tỉnh cơ bản được kiểm soát, không phát sinh mới các tuyến, địa bàn,

tụ điểm phức tạp về ma túy. Tuy nhiên, tình hình tội phạm ma tuý vẫn tiềm ẩn

nhiều yếu tố diễn biến phức tạp, nhất là tội phạm mua bán, vận chuyển ma tuý

tổng hợp. Tội phạm về ma túy chủ yếu hoạt động mang tính chất nhỏ, lẻ, tình

trạng mua bán, sử dụng ma túy tổng hợp dạng “đá” gia tăng, xuất hiện ở hầu hết

các địa bàn, thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi. Qua rà soát, toàn tỉnh hiện có

Hiện nay trên địa bàn toàn tỉnh có 1.868 đối tượng nghiện ma túy có hồ sơ quản

lý (tăng 88 đối tượng so với năm 2016). Nguyên nhân tăng là do một số đối

tượng nghiện ma túy chấp hành xong án phạt tù, thời gian cai nghiện ma túy ở

Cơ sở cai nghiện tỉnh trở về địa phương; một số nghiện mới phát hiện. Cụ thể:

- Số người nghiện ma túy đang cai nghiện tại Trung tâm 06: 221 đối tượng.

- Số người đang quản lý trong Trại tạm giam, Nhà tạm giữ: 288 người.

- Số người nghiện ma túy tại cộng đồng: 1.352 người.

Trên địa bàn tỉnh có 05/137 xã, phường không có đối tượng liên quan đến

ma túy (giảm 01 xã so với năm 2016) gồm: Phú Đa, Vũ Di (Vĩnh Tường); Ngọc

7

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!