Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

bao cao
PREMIUM
Số trang
69
Kích thước
1.9 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
847

bao cao

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Đào Thị Thanh Loan K54CNTYA

PHẦN 1

MỞ ĐẦU

1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Chăn nuôi gia cầm nói chung và chăn nuôi gà nói riêng là nghề sản xuất

truyền thống lâu đời và chiếm vị trí quan trọng thứ hai (sau chăn nuôi lợn) trong

toàn ngành chăn nuôi Việt Nam. Trong những năm gần đây, công tác giống gia

cầm đã có những thành tựu rực rỡ nhờ áp dụng tiến bộ của khoa học công nghệ và

kỹ thuật hiện đại vào sản xuất. Kết quả là tốc độ thay đổi con giống trên thị trường

thế giới cũng như Việt Nam ngày càng nhanh chóng. Các giống gà xuất hiện ngày

càng cho năng suất cao, hầu hết các giống gà sau xuất hiện thường có năng suất cao

hơn và tiêu tốn thức ăn ít hơn giống gà xuất hiện trước. Nhu cầu của con người về

lương thực thực phẩm, trong đó có nhu cầu về thịt gà ngày càng cao. Yêu cầu đặt ra

cho ngành chăn nuôi gia cầm là tạo ra các giống gà có năng suất cao, tỷ lệ thân thịt

nhiều. Theo báo cáo tóm tắt chiến lược phát triển chăn nuôi gia cầm Việt Nam giai

đoạn 2006 – 2015 của cục chăn nuôi, tốc độ tăng đàn gà giai đoạn 2007 – 2010 là

7,8%, sản lượng thịt 1188 tấn. Giai đoạn 2011 – 2015 tốc độ tăng đàn gà là 8,5%

sản lượng thịt tăng 10,9%. Năm 2015 số lượng gà là 350 triệu con, sản lượng thịt là

1992 nghìn tấn. Theo kết quả điều tra chăn nuôi của Tổng cục Thống kê ngày

01/04/2012, tổng đàn gia cầm của cả nước có 310,7 triệu con, tăng 5,8%, sản lượng

thịt gia cầm đạt 439,3 nghìn tấn, tăng 13,7% so với cùng kỳ năm 2011.

Để hoàn thành tốt chỉ tiêu đề ra, tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng đàn

giống gia cầm, đồng thời đáp ứng nhu cầu sản xuất của ngành chăn nuôi. Nước ta

đã nhập một số giống gà hướng thịt có năng suất cao như: AA; Ross 208, 308;

Hybro; BE;…đặc biệt trong những giống gà hướng thịt có giống gà Lohmann Meat

nguồn gốc từ Đức được nhập vào nước ta từ năm 1995 với đàn giống bố mẹ, để

Khoa Chăn nuôi & Nuôi trồng thủy sản 1

Đào Thị Thanh Loan K54CNTYA

nâng cao chất lượng đàn giống Công ty CP Japfa comfeed Việt Nam đã nhập đàn

gà giống ông bà về nuôi. Để khẳng định sự thích nghi của những dòng giống ông

bà phù hợp với điều kiện khí hậu Việt Nam tiến tới chủ động về con giống, khôi

phục tăng cường quản lý chất lượng đàn giống. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành

đề tài:

“Đánh giá khả năng sản suất của gà Lohmann Meat trong điều kiện nuôi

sàn tại trại gà ông bà Đạo Trù – Tam Đảo – Vĩnh Phúc”

1.2. MỤC ĐÍCH

- Đánh giá được khả năng sinh trưởng và sinh sản của đàn gà Lohmann meat

trong điều kiện nuôi dưỡng của công ty

- Xác định hiệu quả sử dụng thức ăn của đàn gà Lohmann meat

- Theo dõi sức sống và khả năng chống chịu bệnh tật của đàn gà Lohmann

trong điều kiện thực tế của địa phương

- Cung cấp bổ sung những số liệu thực tế góp phần đẩy mạnh hoạt động chăn

nuôi

1.3. YÊU CẦU

- Tuân thủ nghiêm ngặt quy trình chăm sóc, thú y của công ty

- Các số liệu thu được khách quan và chân thực.

Khoa Chăn nuôi & Nuôi trồng thủy sản 2

Đào Thị Thanh Loan K54CNTYA

PHẦN II

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. CƠ SỞ CỦA SỰ SINH TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN CỦA GIA CẦM

Sinh trưởng là quá trình tích lũy các chất hữu cơ do quá trình đồng hóa và dị

hóa tạo nên, là sự tăng lên về chiều cao, chiều dài, chiều rộng, khối lượng các bộ

phận và toàn bộ cơ thể trên cơ sở tính di truyền từ đời trước.

Sinh trưởng được xem như quá trình tổng hợp protein vì thế sự tăng trọng là chỉ

tiêu đánh giá quá trình sinh trưởng. Sự tăng trưởng thực chất do sự tăng lên về số

lượng và kích thước của các tế bào mô cơ và dịch thể trong mô bào. Thông qua quá

trình sinh trưởng và phát triển của gà được chia làm hai thời kỳ.

- Thời kỳ gà con: các cơ quan nội tạng chưa hoàn chỉnh đặc biệt là bộ máy

tiêu hóa chưa hoàn thiện về chức năng nhưng quá trình sinh trưởng diễn ra rất

nhanh. Dạ dày chưa tiêu hóa được thức ăn cứng, men tiêu hóa chưa đầy đủ, gà con

dễ bị ảnh hưởng của thức ăn, nuôi dưỡng và nhạy cảm với sự thay đổi của điều kiện

môi trường sống, và từ đó ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng.

- Thời kỳ gà trưởng thành: các cơ quan trong cơ thể đã phát triển hoàn thiện,

số lượng tế bào tăng chậm mà chủ yếu là quá trình phát dục. Giai đoạn này gà ít

ảnh hưởng bởi điều kiện môi trường, thân nhiệt đã ổn định, quá trình tích lũy chất

dinh dưỡng một phần để duy trì sự sống, một phần để tích lũy mỡ. Trong chăn nuôi

gà hướng trứng và gà giống hướng thịt cần chú ý khống chế khối lượng cơ thể tránh

quá béo ảnh hưởng đến sức sản xuất sau này, đối với gà thịt cần xác định thời điểm

giết mổ thích hợp khi tốc độ sinh trưởng giảm nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao.

Sự sinh trưởng và phát triển của gia cầm chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác

nhau như: dòng, giống, tốc độ mọc lông, dinh dưỡng, môi trường sống,…

Khoa Chăn nuôi & Nuôi trồng thủy sản 3

Đào Thị Thanh Loan K54CNTYA

2.1.1. Ảnh hưởng của dòng, giống

Những dòng, giống khác nhau có khả năng sinh trưởng khác nhau, do có sự

khác nhau về khả năng tiêu hóa, hấp thu cũng như mức độ trao đổi chất. Gà hướng

thịt có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn gà kiêm dụng và gà hướng trứng. Theo

Nguyễn Mạnh Hùng và cộng sự (1994) sự khác nhau về khối lượng giữa các giống

gia cầm là rất lớn, giống gà kiêm dụng nặng hơn gà hướng trứng khoảng 500 –

700g (13 – 30%).

Giữa các dòng khác nhau của cùng một giống khả năng sinh trưởng cũng

khác nhau. Trần Long (1994) nghiên cứu tốc độ sinh trưởng trên 3 dòng thuần

(dòng V1, V3, V5) của giống gà Hybro HV85 cho thấy tốc độ sinh trưởng 3 dòng

hoàn toàn khác nhau ở 42 ngày tuổi, Con lai thương phẩm thịt của 3 dòng V1, V3,

V5 gọi là V135 đã cho năng suất thịt hơn hẳn gà thương phẩm thịt 791 của giống

Plymut. Theo Godfrey E.F và Joap R.G (1952) sự di truyền các tính trạng về khối

lượng cơ thể do 15 cặp gen tham gia trong đó ít nhất có một gen về sinh trưởng liên

kết giới tính (nằm trên nhiễm sắc thể X), vì vậy có sự khai thác về khối lượng cơ

thể giữa con trống và con mái trong cùng một giống, gà trống nặng hơn gà mái

khoảng từ 24 – 32%.

2.1.2. Ảnh hưởng của tính biệt

Tốc độ sinh trưởng do gen quy định, có ít nhất một gen liên kết với giới tính

vì thế tốc độ sinh trưởng còn chịu ảnh hưởng của tính biệt. Gà trống có tốc dộ sinh

trưởng nhanh hơn gà mái 24 – 32%, sự khác biệt do gen liên kết giới tính, những

gen này ở gà trống (có 2 NST giới tính) hoạt động mạnh hơn gà mái (có 1 NST giới

tính).

2.1.3. Ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng

Quá trình sinh trưởng và phát triển của gia cầm, khi dòng, giống là nguyên

nhân bên trong mang tính quyết định thì thức ăn là nguyên nhân bên ngoài quan

Khoa Chăn nuôi & Nuôi trồng thủy sản 4

Đào Thị Thanh Loan K54CNTYA

trọng nhất để phát triển tiềm năng di truyền của giống. Để việc bổ sung thức ăn đạt

hiệu quả cao cần cung cấp đủ số lượng thành phần dinh dưỡng và cần đặc biệt chú

ý cân bằng tỷ lệ giữa năng lượng, protein, axitamin. Theo Bùi Đức Lũng và Lê

Hồng Mận (1995) để phát huy khả năng sinh trưởng cần cung cấp thức ăn tối ưu

với đầy đủ chất dinh dưỡng được cân bằng nghiêm ngặt giữa năng lượng, protein

và các axitamin. Ngoài ra, trong thức ăn hỗn hợp cần được bổ sung hàng loạt các

chế phẩm sinh học không mang theo ý nghĩa dinh dưỡng nhưng nó kích thích sinh

trưởng làm tăng chất lượng thịt.

2.1.4. Ảnh hưởng của môi trường

Các yếu tố như nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng, sự thông thoáng, mật độ chuồng

nuôi,…không hợp lý sẽ ảnh hưởng đến trao đổi chất và hiệu quả sử dụng thức ăn và

từ đó ảnh hưởng tốc độ sinh trưởng.

Khả năng điều tiết nhiệt của cơ thể gà con còn kém, nhất là trong 10 ngày

tuổi đầu tiên. Trong 4 ngày đầu tiên, nhiệt độ môi trường là 1 – 100C thì tỷ lệ gà

con chết từ 40 – 50%. Sau 10 ngày tỷ lệ chết là 60%. Số còn lại khả năng sinh

trưởng kém, còi cọc, ảnh hưởng xấu đến sức sản xuất sau này.

Chiếu sáng cho gà hậu bị rất quan trọng, vì gà hậu bị (đặc biệt là gà mái) rất

nhạy cảm với sự chiếu sáng. Nếu kéo dài thời gian chiếu sáng gà sẽ thành thục sớm

hơn dự định, sẽ làm sức đẻ trứng giảm sút và tăng khả năng mắc bệnh.

Trong các yếu tố tiểu khí hậu chuồng nuôi, nhiệt độ là yếu tố quan trọng

nhất. Gà mái đẻ được nuôi trong khoảng nhiệt độ thích hợp sẽ tiêu tốn thức ăn ít

nhất mà khả năng sản xuất lại có thể đạt cao nhất. Theo TS. Nguyễn Thị Mai và

cộng sự (2009) thì nhiệt độ thích hợp cho gà sinh sản giống thịt giai đoạn đẻ trứng

nhiệt độ thích hợp là 200C. Nhiệt độ 0 – 50C và 26 – 300C là vùng nhiệt độ nguy

hiểm.

Khoa Chăn nuôi & Nuôi trồng thủy sản 5

Đào Thị Thanh Loan K54CNTYA

Điều chỉnh độ ẩm trong chuồng nuôi là một vấn đề hết sức quan trọng, nếu

độ ẩm cao mà nhiệt độ cũng cao, gà rất dễ chết vì choáng nóng. Nếu nhiệt độ thấp,

gà càng nhạy cảm với các yếu tố gây bệnh, đặc biệt là bệnh đường hô hấp. Nếu ẩm

thấp, sự bốc hơi nước từ đường hô hấp tăng lên làm cơ thể dễ bị lạnh. Độ ẩm còn

làm sinh nhiều bụi do đó làm hỏng lớp màng nhầy. Không khí khô làm da khô, gây

bệnh ngứa là một trong những nguyên nhân làm mổ nhau và ăn lông.

2.2. SỨC SỐNG VÀ KHẢ NĂNG KHÁNG BỆNH

Sức sống và khả năng kháng bệnh là chỉ tiêu quan trọng ảnh hưởng trực tiếp

đến hiệu quả chăn nuôi, bị chi phối bởi các yếu tố di truyền và ngoại cảnh.

Khả năng kháng bệnh là tính không thụ cảm với mầm bệnh của cơ thể sống

như khả năng chống lại bệnh tật của cơ thể. Tính kháng bệnh là là tính trạng nhiều

gen kiểm soát và chịu ảnh hưởng của điều kiện môi trường (Đặng Hữu Lãnh và

cộng sự năm 1999). Nhiễm sắc thể giới tính Z (ở gà trống) mang gen đề kháng

bệnh, nhưng nhiễm sắc thể W (ở gà mái) lại có gen cảm nhiễm với bệnh (Nguyễn

Hoàng Ân và cộng sự, 1983).

Johanson (1972) cho biết, sức sống được thể hiện ở thể chất và được xác

định bởi tính di truyền, đó là khả năng cơ thể chống lại những ảnh hưởng bất lợi

của môi trường cũng như ảnh hưởng của dịch bệnh. Các giống vật nuôi nhiệt đới có

khả năng chống bệnh truyền nhiễm, bệnh ký sinh trùng cao hơn so với những vật

nuôi ở xứ lạnh (Trần Đình Miên và cộng sự, 1994).

Điều kiện sống cũng ảnh hưởng đến sức sống và khả năng kháng bệnh của

vật nuôi. Phan Cự Nhân và Trần Đình Miên (1998) cho biết, dù chăn nuôi theo

phương thức nào thì đàn gia cầm nuôi tập trung đều có số lượng lớn các tác nhân

truyền nhiễm bệnh là vi khuẩn, cho nên việc phòng dịch bệnh phải thường xuyên,

biện pháp bảo đảm an toàn sinh học.

Khoa Chăn nuôi & Nuôi trồng thủy sản 6

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!