Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

BÀI THƠ TÂY TIẾN  QUANG DŨNG
MIỄN PHÍ
Số trang
45
Kích thước
334.7 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1991

BÀI THƠ TÂY TIẾN QUANG DŨNG

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

TÂY TIẾN

Quang Dũng

Câu 1: Vài nét về tác giả Quang Dũng ? Giới thiệu về đoàn quân Tây Tiến ? Hoàn

cảnh ra đời bài thơ Tây Tiến ?

a. Tác giả

- Quang Dũng (1921 - 1988), tên khai sinh: Bùi Đình Diệm, (tức Dậu).

- Quê: Đan Phượng, Hà Tây.

- Là nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc...

- 2001, được tặng giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật.

- Tác phẩm chính: Mây đầu ô (thơ - 1986), Mùa hoa gạo, Tuyển thơ văn Quang Dũng

(1988)

b. Giới thiệu đoàn quân Tây Tiến

- Thành lập đầu năm 1947. Quang Dũng là đại đội trưởng.

- Thành phần: đa số là thanh niên Hà Nội, trong đó có sinh viên và học sinh.

- Nhiệm vụ: phối hợp với bộ đội Lào, đánh tiêu hao lực lượng Pháp ở Thượng Lào, miền

- Tây Bắc bộ Việt Nam, góp phần bảo vệ biên giới Lào - Việt.

- Địa bàn hoạt động: khá rộng, gồm Sơn La, Hòa Bình, Sầm Nứa (Lào) vòng về miền tây

Thanh Hóa.

- Điều kiện chiến đấu gian khổ: núi cao, vực thẳm, rừng dày, thú dữ, sốt rét hoành hành.

c. Hoàn cảnh ra đời bài thơ: 1948, đơn vị Tây Tiến giải thể, thành lập trung đoàn 52.

Cuối 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ được sáng tác tại Phù Lưu

Chanh sau khi rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu. Lúc đầu có tên Nhớ Tây Tiến, sau khi in lại

trong tập Mây đầu ô, tác giả đổi tên thành Tây Tiến.

Câu 2: Phân tích bài thơ Tây Tiến.

Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.

Cảm hứng lãng mạn là niềm lạc quan, yêu đời, đạp bằng tất cả những gian khổ, hi sinh

mất mát, hướng về tương lai hi vọng, trông chờ.

Cảm hứng bi tráng (bi hùng): bi là đau thương, hùng là hào hùng, nghĩa là vừa bi

thương lại vừa hào hùng.

1. Khổ 1 ( Sông Mã ... nếp xôi)

Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ gợi nhớ gợi thương:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

•- Vần "ơi", kết hợp từ láy "chơi vơi" là vần bằng tạo âm hưởng của tiếng

gọi đồng vọng miên man không dứt, câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người

vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Nỗi nhớ như có hình

dáng của núi non, của hồn cây, vách đá, con sông.

•- Tác giả gọi tên con Sông Mã đầu tiên trong nỗi nhớ của mình. Vì con

sông Mã là người bạn, là nhân chứng đã theo suốt bước chân quân hành, chứng kiến biết

bao buồn vui, bao mất mát, hi sinh, vất vả của người lính TT. Gọi tên TT là gọi tên đồng

đội, gợi nhớ bạn bè.

•- Điệp từ "nhớ" được nhắc lại hai lần góp phần tô đậm cảm xúc nhớ

nhung dâng trào của tác giả.

Dẫn chứng minh họa thêm: Thơ ca VN khi nói về nỗi nhớ có nhiều cách diễn tả:

Ca dao có câu:

Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than

Diễn tả tình cảm cách mạng, Tố Hữu có câu:

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhưng đến Quang Dũng thì nỗi nhớ sáng tạo hơn cả - nhớ chơi vơi. Chơi vơi là trạng thái

trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. Nhớ chơi vơi có thể hiểu

là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không

thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi làm cho con người

có cảm giác đứng ngồi không yên. Và nỗi nhớ ấy, tiếng gọi ấy đang đưa nhà thơ về với

những kỉ niệm không quên của một thời gian khổ.

•· Đó là nỗi nhớ về cuộc hành quân giữa núi rừng miền Tây vừa hùng vĩ lại vừa thơ

mộng trữ tình được cảm nhận bằng cảm hứng lãng mạn và tâm hồn lãng mạn hào hoa.

•- Tác giả gợi nhắc nhiều địa danh xa lạ: Sài Khao, Mường lát, Pha Luông, Mường

Hịch, Mai Châu... gợi bao cảm xúc mới lạ, tác giả như đưa người đọc lạc vào những địa

hạt heo hút, hoang dại để từ đó dõi theo bước chân quân hành của người lính.

•- 6 câu thơ tiếp theo " Sài khao....xa khơi" diễn tả thật đắc địa sự hùng vĩ của núi

rừng miền Tây. 6 câu thơ này là bằng chứng đặc sắc của "thi trung hữu họa" (trong thơ có

họa):

Cụ thể:

Con đường hành quân thật gian nan, vất vả, nguy hiểm với dốc cao, vực thẳm:

Sài Khao sương......

Mường Lát.........

+ Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ lấp cả đoàn quân. Đoàn quân hành quân trong

sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp mệt mỏi rã rời. Tuy vậy họ vẫn thấy con đường hành

quân thật đẹp và thơ mộng: đi trong sương, trong hoa đêm hơi.

Dốc lên......

Heo hút...

Ngàn thước...

Nhà ai...

+ Đường đi toàn dốc cao được diễn tả với nhiều từ láy tạo hình "khúc khuỷu" (quanh co

khó đi), "thăm thẳm" (diễn tả độ cao, độ sâu), "heo hút" (xa cách cuộc sống con người).

Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đi liền nhau "dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm" (bảy

chữ mà đã có tới 5 chữ là thanh trắc) khiến khi đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi

như đang cùng hành quân với đoàn binh vậy.

+ Đỉnh núi mù sương cao vút. Núi cao tận mây, mây nổi thành cồn, mũi súng chạm trời.

Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: "súng ngửi

trời" giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định

chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới "Khó khăn nào

cũng vượt qua - Kẻ thù nào cũng đánh thắng!". Chính vì chất lính trẻ trung ấy mà trước

thiên nhiên dữ dội người lính TT không bị mờ đi mà nổi lên đầy thách thức.

+ Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: "ngàn thước lên cao, ngàn

thước xuống". Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không

dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: "Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống",

làm câu thơ như bẻ đôi, diễn tả con dốc với chiều cao, sâu rợn ngợp: nhìn lên cao chót

vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng

hùng vĩ được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ - chiến sĩ.

+ Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Câu thơ được dệt

bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người

lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người

chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và

yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ

gìn.

+ Sự dữ dội của núi rừng cũng vắt kiệt sức người: "Anh bạn dãi dầu không bước nữa/

Gục lên súng mũ bỏ quên đời". Cái chết đậm chất bi hùng: Chết trong tư thế đẹp, ôm

chắc cây súng trong tay sẵn sàng chiến đấu, không quên nhiệm vụ của người lính. Hiện

thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương

máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hy sinh nhưng không chút

bi luỵ, thảm thương.

+ Ta trở lại đoạn thơ trên, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là

mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại

ngàn hoang vu:

"Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"

"Chiều chiều..." rồi "đêm đêm" nhưng âm thanh ấy, "thác gầm thét", "cọp trêu người",

luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chất

hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tô

đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong

tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc! Đoàn quân

vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực thiên nhiên như bị giảm

xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn

Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc tâm

tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào:

"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"

"Nhớ ôi!" tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến "đoàn binh không

mọc tóc". Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với "cơm lên khói", với

"mùa em thơm nếp xôi" có bao giờ quên? Hai tiếng "mùa em" là một sáng tạo độc đáo về

ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển,

mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp.

"Nhớ mùi hương", nhớ "cơm lên khói", nhớ "thơm nếp xôi" là nhớ hương vị núi rừng

Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu. Mười bốn

câu thơ trên đây là phần đầu bài "Tây Tiến", một trong những bài thơ hay nhất viết về

người lính trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên

đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với

niềm kiêu hãnh

" Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh...".

Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài

hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ " Tây Tiến của Quang Dũng ngày một thêm sáng giá.

2. Khổ 2 ( Doanh trại...đong đưa)

Bốn câu đầu: (chép vào) đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân.

+ Từ " Bừng lên" gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội,

ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành "đuốc hoa" ("Đuốc hoa" là hoa chúc - cây nến đốt lên

trong phòng cưới, đêm tân hôn.)gợi không khí ấm cúng. "Bừng" chỉ ánh sáng của đuốc

hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười

tưng bừng rộn rã.

+ Từ "kìa em" thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong

trang phục "xiêm áo" lộng lẫy cùng dáng vẻ "e ấp" rất thiếu nữ. Những thiếu nữ Mường,

những thiếu nữ Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng "e ấp", xuất hiện trong bộ

xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn "man điệu" đã "xây hồn thơ" trong lòng các chàng

lính trẻ.Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân

tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ. Họ càng yêu đời hơn, yêu đất bạn

hơn " Nhạc về..."

+ Không chỉ thế người lính còn mải mê, say trong tiếng nhạc, điệu khèn của vùng đất lạ.

4 câu sau: Cảnh sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng :hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi

vị.

Thời gian: chiều sương ấy, gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa có nỗi buồn man mác.

Sông nước hoang dại, bên bờ lau lách, hoa rừng đong đưa. Hình ảnh "hoa đong đưa" là

một nét vẽ lãng mạn gợi tả cái "dáng người trên độc mộc" trôi theo thời gian và dòng

hoài niệm. Đoạn thơ gợi lên một vẻ đẹp mơ hồ, thấp thoáng, gần xa, hư ảo trên cái nền

"chiều sương ấy". Cảnh và người được thấy và nhớ mang nhiều man mác bâng khuâng.

Bút pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này.

+ Dáng người mềm mại của cô gái Thái, Mèo trên chiếc thuyền độc mộc hay dáng người

hùng dũng, hiên ngang của người lính đang đưa con thuyền tiến về phía trước càng làm

cho bức tranh thêm phần thơ mộng.

"Có nhớ", "có thấy" luyến láy, khắc họa thêm nỗi nhớ: lưu luyến, bồi hồi.

Nghệ thuật: ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ mang đậm chất lãng mạn, hào hoa.

3. Khổ 3

Hình tượng người lính Tây Tiến bi thương, hào hùng, lãng mạn.

Giữa nền thiên nhiên khắc nghiệt, hình ảnh người lính hiện lên thật kì dị: Quang Dũng đã

dùng những hình ảnh rất hiện thực để tô đậm cái phi thường của người lính.

Bi thương: Ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như màu lá. Đoàn quân

trông thật kì dị: " TT đoàn binh...oai hùm".

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!