Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Bài giảng giống và chọn giống đại cương
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
DỰ ÁN HỢP TÁC VIỆT NAM – HÀ LAN
BÀI GIẢNG
GIỐNG VÀ CHỌN GIỐNG ĐẠI CƯƠNG
Người biên soạn: TS. Lê Tiến Dũng
Huế, 08/2009
1
Bài 1
MỞ ĐẦU
I- CHỌN TẠO GIỐNG CÂY TRỒNG LÀ GÌ?
“Chọn tạo giống cây trồng” (Plant Breeding) là môn khoa học, cũng là môn
nghệ thuật về sự thay đổi, cải thiện tính di truyền của cây trồng. Nói một cách khác
chọn tạo giống cây trồng là “chọn lọc” từ các biến dị tự nhiên cũng như nhân tạo có
trong quần thể để tạo ra giống mới.
Công việc đầu tiên của chọn lọc giống cây trồng là quá trình thuần hoá các cây
dại thành cây trồng nông nghiệp, nhằm không ngừng cải thiện tiềm năng năng suất.
Tiềm năng này thường biểu hiện ở một số đặc tính: số hạt/bông, trọng lượng hạt, chỉ số
thu hoạch, kĩ thuật trồng trọt hoặc tính chịu đựng với điều kiện thời tiết khắc nghiệt
(stress).
Cùng với sự phát hiện ra giới tính của cây trồng, phương pháp lai tạo đã bổ sung
cho kĩ thuật chọn tạo giống. Mặc dù lai tạo là biện pháp thực hành đã được áp dụng từ
trước khi có những ý kiến của Mendel, nhưng vai trò của đặc tính di truyền trong chọn
tạo giống không dễ gì chấp nhận bởi các nhà khoa học đương thời. Thực nghiệm của
Mendel đã cung cấp cơ sở khoa học về cơ chế của tính di truyền tuy những năm trước
đây cũng có nhiều cách giải thích về cơ chế di truyền đã được công bố.
Nghệ thuật của chọn tạo giống cây trồng là ở chỗ: khả năng quan sát, óc phán
đoán của các nhà chọn giống nhằm phát hiện ra những biến dị có lợi đem lại nguồn giá
trị kinh tế cao của các loài để có những loại hình tối ưu.
Nhiều nhà chọn giống lúc đầu mang tính nghiệp dư, cây trồng họ tìm ra là cây
lẫn giống ở trên đồng ruộng hoặc trên vườn thí nghiệm.
Nông nghiệp hiện đại ngày càng được cơ giới hoá nên yêu cầu cần có những
loại hình cây trồng phù hợp, đó là lí do để các nhà chọn tạo giống tìm ra những cây
trồng có các tính trạng, đặc tính đáp ứng đầy đủ và thoả mãn dần các nhu cầu trên. Ví
dụ: tìm ra giống củ cải đường phù hợp với gieo trồng bằng máy bay giống cà chua có
khả năng thu hoạch bằng cơ giới. Tương tự như vậy, tạo ra một số cây trồng có đặc
tính phù hợp với một số chất nông dược, chịu đựng được thuốc diệt cỏ...
Thành công của chương trình chọn giống nhằm đáp ứng các mục tiêu khác nhau
và phụ thuộc vào 2 yếu tố chính: tính biến dị, tính ổn định của một giống cây trồng.
II- TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÔNG TÁC CHỌN TẠO GIỐNG CÂY TRỒNG
Qúa trình thuần hoá cây dại thành cây trồng diễn ra chậm chạp. Nó chỉ phát
triển mạnh từ khi châu Âu phát hiện ra sự sinh sản hữu tính của cây trồng do
Camerarius công bố vào năm 1694. Sau năm 1760, nhà thực vật học Thuỵ Điển và sau
này là Kolreuteur thì các cơ quan sinh sản của cây trồng mới được mô tả tỉ mỉ và một
số cặp lai thuốc lá mới được tiến hành.
2
Từ khi xuất hiện tác phẩm “ Nguồn gốc các loài bằng chọn lọc tự nhiên” của
Charle Darwin (1865) mới có sự thúc đẩy mạnh mẽ trong công tác chọn tạo giống cây
trồng. Năm 1865, Gregor Mendel đã có những phát hiện quan trọng khi lai các giống
đậu Hà Lan có các cặp tính trạng khác nhau. Tuy nhiên xã hội đương thời không thừa
nhận phát minh tuyệt vời của ông, do vậy cơ sở khoa học của công tác chọn tạo giống
chưa có.
Đến những năm 1900 với việc phát hiện của T.Schermark, C.Correns và H.De
Vries thì những kết quả của Mendel mới được thừa nhận.
Ở thế kỉ này, công tác chọn tạo giống cây trồng dựa vào các phương pháp lai
trong cùng một loài với những phương pháp chọn giống đặc biệt về tần số các biến dị
và sự phân li ở các thế hệ và đã thu được kết quả tốt, góp phần thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp.
Ví dụ: trước năm 1938 lượng đường trong củ cải đường chỉ chiếm 9%, đến nay
đã có những giống chứa trên 20% hoặc giống Hướng dương thường chỉ chứa có 30%
dầu trong khi đó các giống lai chứa tới 50% và có giống đạt 60% hàm lượng dầu
(Pustovoi, 1975). Năng suất kỉ lục của ngô (Zea mays) đạt được giữa thế kỉ thứ 19 là
5tấn/ha, nhưng hiện nay năng suất bình quân ở Mĩ và châu Âu đạt từ 10 – 15tấn/ha.
Năng suất kỉ lục hiện nay vượt 20tấn/ha còn các giống lúa mì mới đạt 6 – 8tấn/ha và kỉ
lục >10tấn/ha.
Sự đóng góp của giống mới đã làm cho sản xuất nông nghiệp phát triển. Theo
kết quả thí nghiệm của I.Shizuka (1969) cho thấy rằng: các giống lúa mới sản lượng đã
tăng 50 – 60% so với các giống cổ truyền.
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, các phương pháp mới về chọn tạo giống cây
trồng bắt đầu bằng việc sử dụng các phương pháp lai quy ước. Các kĩ thuật mới bao
gồm: đa bội thể nhân tạo, đột biến nhân tạo, kĩ nghệ nhiễm sắc thể (thêm đoạn và thay
đổi đoạn nhiễm sắc thể), bất dục đực... Hầu hết các phương pháp chọn tạo giống đã
được phát triển bước đầu như: dung hợp tế bào trần, kĩ thuật tái tổ hợp ADN đã cho
phép phát triển các tế bào hoặc những giống mới mà trước đây chưa hề có.
Ở nhiều nước, sản lượng của cây trồng chính tăng lên gấp 2 hoặc gấp 3 lần trong
khoảng 30 năm trở lại đây. Sự phát triển giống mới có năng suất cao là biện pháp chính
để tăng sản lượng lương thực. Tuy nhiên, các giống mới lại đòi hỏi điều kiện sản xuất
thâm canh không phải nơi nào cũng đáp ứng được. Có những vùng đất cát mặn, chua
hoặc đất lầy thụt chỉ dùng cho nền nông nghiệp sơ khai. Những loại đất này cần được
cải thiện hoặc sử dụng giống chống chịu thích nghi ở mỗi vùng. Ngoài ra ở vùng đất
dốc, đất băng giá... cũng cần có bộ giống thích hợp.
Nhiều giống cây ăn quả, cây thuốc, cây dược thảo và cây thức ăn gia súc... lâu
nay được trồng ở vùng đất màu mỡ đã được đưa lên miền núi như củ cải đường và ngô.
III- QUAN NIỆM CỦA VAVILOV VỀ CHỌN TẠO GIỐNG CÂY TRỒNG
3
Nhicolai I.Vavilov 1887 – 1942 là nhà thực vật người Nga, đồng thời cũng là
một nhà chọn giống cây trồng đã từng đề xướng về “Trung tâm khởi nguyên” mà từ
những trung tâm này có thể tìm thấy ở mức độ cao nhất về biến dị và di truyền của các
loài. Biến dị này xuất hiện do đột biến tự nhiên, lai tự phát và những thay đồi về cấu
trúc và số lượng nhiễm sắc thể nhằm thích nghi với các điều kiện môi trường phức tạp
có thể xảy ra.
Sự hình thành loài đã được Vavilov nêu lên trong tác phẩm: “Luật về các loài
biến dị tương đồng” theo luật này thì một dạng đột biến có thể tìm thấy ở các loài khác
có liên quan đến loài đầu tiến. Ông cũng cho rằng nơi nào có sự tạp giao giữa 2 loài và
trên 2 loài, có sự tác động của chọn lọc tự nhiên và nhân tạo thì phát sinh ra trung tâm
thứ cấp. Vavilov thừa nhận rằng bằng việc gieo trồng các biến dị trong điều kiện thích
hợp, các tính trạng đặc tính của cây trồng sẽ biểu hiện ra và thuận lợi cho việc chọn
lọc.
IV- CHỌN TẠO GIỐNG CÂY TRỒNG SAU M ENDEL
Sau khi phát hiện ra định luật Mendel vào năm 1900, Bateson người đã đặt tên
“Di truyền học” thành một môn khoa học mới đã thừa nhận rằng: môn khoa học di
truyền là cơ sở khoa học và mở ra những phương pháp chọn tạo giống mới cho cây
trồng. Chọn tạo giống cây trồng hiện đại ra đời, di truyền học bắt đầu được áp dụng và
các môn khoa học cơ sở của nó được áp dụng rộng rãi, được chấp nhận như một công
cụ kĩ thuật như: tế bào học, sinh lí học, bệnh cây, côn trùng, thống kê... Đã có nhiều
tiến bộ đáng kể ở các lĩnh vực khác nhau đã đóng góp cho công tác chọn giống cây
trồng. Những tiến bộ này bao gồm việc tạo ra các đồng nguyên và dị nguyên đa bội thể
của các loài cây trồng trong tự nhiên. Đã xuất hiện các dạng đa bội thể nhân tạo trong
tự nhiên được sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp, tiếp đến là cách sử dụng các tác nhân lí
hoá học để gây đột biến.
Cũng có nhiều phát minh đã đóng góp vào tiến bộ và thành công của công tác
chọn tạo giống, trong đó phải kể đến di truyền số lượng và sự tương tác giữa kiểu gen
và môi trường chọn tạo giống chống chịu, sự bảo tồn nguồn gen. Gần đây những tiến
bộ về di truyền học cho phép các nhà chọn tạo giống tìm ra những phương pháp mới
như việc lập bản đồ RFLP, việc chọn lọc nhờ gen đánh dấu, sử dụng những dòng vô
tính và thông tin di truyền
V- MỤC TIÊU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA CHỌN TẠO GIỐNG CÂY TRỒNG
V.1. Mục tiêu:
Mục tiêu trước mắt của nhà chọn tạo giống đó là:
- Chọn tạo giống cây trồng có năng suất cao: đây là mục tiêu hàng đầu của các
nhà chọn tạo giống ở cây tự thụ cũng như cây giao phấn, ở giống thuần cũng như giống
lai, đặc biệt là việc sử dụng ưu thế lai của cây tự thụ và cây giao phấn.
4
- Chọn tạo giống cây trồng có chất lượng nông sản tốt, đặc biệt là chất lượng
dinh dưỡng, chất lượng nấu nưỡng và chất lượng thương phẩm cao.
- Chọn tạo giống cây trồng có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt và chống chịu
với điều kiện bất thuận, mặn, hạn, úng...
- Chọn tạo giống có đặc tính nông sinh học nhằm đáp ứng nhu cầu của sản xuất
và người tiêu dùng: chiều cao cây, thời gian sinh trưởng, khả năng cơ giới hoá khi thu
hoạch và bảo quản, chế biến nông sản phẩm.
V.2. Chiến lược:
Về chiến lược lâu dài của các nhà tạo chọn giống cũng thật đơn giản nhưng
không phải là không khó khăn.
- Nhận biết được các đặc trưng hình thái, đặc tính sinh lí, di truyền và phản ứng
của cây trồng với sâu bệnh nhằm tăng tính thích nghi của mỗi loài, mỗi giống cây trồng
với năng suất và phẩm chất.
- Xây dựng các biện pháp kĩ thuật phù hợp với các đặc điểm hình thái, sinh lí, di
truyền và đặc tính nông sinh học khác.
- Nghiên cứu nguồn gen và các đặc tính mong muốn của nhà chọn giống.
- Ứng dụng các thành quả của di truyền học hiện đại để xúc tiến nhằm tạo nhanh
các giống cây trồng mới hoặc cải tiến giống.
VI- KHÁI NIỆM VỀ GIỐNG
VI.1. Định nghĩa: “Giống là một nhóm cây trồng, có đặc điểm kinh tế, sinh học
và các tính trạng hình thái giống nhau, cho năng suất cao, chất lượng tốt ở các vùng
sinh thái khác nhau và điều kiện kĩ thuật phù hợp.”
VI.2. Giống (Varieties, Cultivar) do một nhóm thực vật hợp thành nên có một
nguồn gốc chung từ một cá thể hay một số cá thể có đặc tính, tính trạng giống nhau.
VI.3. Giống mang tính khu vực hoá: tất cả mọi tính trạng và đặc tính của
giống chỉ biểu hiện ra trong những điều kiện ngoại cảnh nhất định (đất đai, khí hậu,
thời tiết... và các biện pháp kĩ thuật). Từ đó xuất hiện các khái niệm về giống chống
chịu: hạn, mặn, úng, điều kiện khắc nghiệt...
VI.4. Giống mang tính di truyền đồng nhất (ổn định, ít phân li...) có tính đồng
nhất về tính trạng hình thái và một số đặc tính nông sinh học khác như: chiều cao cây,
thời gian sinh trưởng, khả năng chống chịu.
VI.5. Giống không ngừng thoả mãn nhu cầu của con người: năng suất cao,
chất lượng tốt, có giá trị thương phẩm cao.
VII- KHÁI NIỆM VỀ TÍNH TRẠNG, ĐẶC TÍNH CỦA GIỐNG
VII.1. Tính trạng: là những đặc điểm về hình thái, cấu tạo của thực vật. Để
nhận biết các tính trạng, người ta chia ra thành 4 nhóm sau:
5
- Về đặc điểm hình thái giải phẫu. Ví dụ: chiều cao cây, cỡ lá, số lượng đốt... đó
là những tính trạng số lượng có thể cân đo, đong đếm được.
- Về đặc điểm cấu tạo: độ dày của bông, màu sắc thân lá, hoa quả. Đó là những
tính trạng chất lượng. Tính trạng chất lượng thường do một gen kiểm tra và dễ thay đổi
bởi điều kiện ngoại cảnh và có thể quan sát được bằng phương pháp cảm quan.
- Sự tiến hành một quá trình: ví dụ: sự hô hấp, sự quang hợp, phản ứng quang
chu kì... quá trình này diễn ra rất mẫn cảm với môi trường.
Sự kiểm tra một quá trình: ví dụ như sự hoạt động của chu trình Calvin. Hầu hết
các men rất mẫn cảm với môi trường và nó chịu ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp các
men thường có trong hạt có thể ảnh hưởng quan trọng đến tính trạng chất lượng.
VII.2. Đặc tính: đó là các đặc điểm sinh lí, sinh hoá và các đặc điểm kĩ thuật
của thực vật. Ví dụ: tính chịu hạn, mặn, rét, úng...
Đặc tính sinh hoá: hàm lượng đường, protein trong hạt, quả... còn đặc điểm kĩ
thuật: đó là hiệu suất bột của hạt, độ xốp của bánh...
6
Bài 2
CƠ SỞ DI TRUYỀN SỐ LƯỢNG TRONG CHỌN GIỐNG CÂY TRỔNG
I- CÁC TÍNH TRẠNG
Tính trạng của các cá thể, dù là động vật hay thực vật, đều có hai loại, đó là tính
trạng chất lượng và tính trạng số lượng. Tính trạng chất lượng biểu thị sự biến thiên
gián đoạn, do đó dễ dàng phân loại các cá thể thành những dạng khác nhau. Một ví dụ
về tính trạng chất lượng ở người là nhóm máu. Các cá thể của quần thể người nếu phân
loại theo nhóm máu A, B,O, có thể dễ dàng phân thành 4 nhóm A, B, Ab và O. Ở thực
vật các tính trạng chất lượng gồm màu sắc hạt, nội nhũ hoặc dạng nếp hay tẻ ở lúa...
Tính trạng số lượng ngược lại biểu thị sự biến thiên liên tục và từ giá trị thấp
đến giá trị cao có nhiều dạng trung gian. Phần lớn các tính trạng kinh tế quan trọng ở
thực vật là những tính trạng số lượng như năng suất, phẩm chất, thời gian sinh trưởng...
Nguyên nhân gây ra sự biến thiên liên tục ở các tính trạng số lượng là sự kiểm soát của
nhiều gen có hiệu ứng nhỏ nhưng mang tính tích luỹ, gọi là đa gen. Sự phân li đồng
thời nhiều gen tạo ra một phạm vi rộng các kiểu gen mang tính liên tục không thể phân
chia thành những lớp riêng biệt. Biến dị giữa các cá thể trong một quần thể đối với một
tính trạng số lượng ngoài kiểu gen còn liên quan tới sự ảnh hưởng của môi trường.
Nghiên cứu di truyền số lượng đôi khi còn gọi là di truyền thống kê. Phương pháp tiếp
cận di truyền số lượng là phân chia giá trị kiểu hình và phương sai của một tính trạng
số lượng ra các thành phần.
II- GIÁ TRỊ KIỂU HÌNH VÀ KIỂU GEN
II.1. Giá trị trung bình của quần thể:
Cơ sở di truyền số lượng là sự phân chia giá trị kiểu hình của một tính trạng số
lượng thành các thành phần do ảnh hưởng của kiểu gen và ảnh hưởng của môi trường.
Trong phần lớn các trường hợp thực tế giá trị kiểu gen được xác định bởi nhiều
gen hay nhiều lô-cut. Tuy nhien để đơn giản hoá chúng ta chỉ xét đến hiệu ứng của một
lô-cut.
Giả sử quần thể ở trạng thái cân bằng Hardy-Weinberg, ta có:
KIỂU GEN TẦN SỐ GIÁ TRỊ TẦN SỐ X GIÁ TRỊ
A1A1 p
2
+ a p
2
a
A1A2 2pq d 2pqd
A2A2 q
2
- a - q
2
a
Tổng = Giá trị trung bình của quần thể = M = a (p - q) + 2pqd
Trong đó:
M = giá trị trung bình của quần thể
p = tần số của alen A1
7
q = tần số của alen A2
+a và –a = giá trị tương ứng của hai thể đồng hợp tử A1A1
và A2A2
d = giá trị của thể dị hợp tử
Trong mô hình trên, hai đồng hợp tử có giá trị bằng nhau nhưng khác dấu trên
thang giá trị (a và -a), trong khi đó d là độ trội giữa hai alen, được tính bằng hiệu số
giữa giá trị của thể dị hợp tử và trung bình của hai đồng hợp tử.
2
1 1 2 2
1 2
A A A A
d A A
Do đó nếu không có trội thì d = 0, nếu trội hoàn toàn d = a, nếu trội không
hoàn toàn d < a và siêu trội nếu d > a. Vì thế tỉ số d/a có thể dùng để đo độ trội. Giá trị
trung bình của quần thể là hàm số của tần số gen, p và q. Tần số của một alen trong
quần thể có thể thay đổi từ 0 đến 1. Giá trị của a và d ở một lô-cut không thay đổi giữa
các lô-cut. Với một tính trạng số lượng có nhiều lô-cut tương tác với nhau, giá trị trung
bình của quần thể bằng tổng của các giá trị trung bình của các lô-cut riêng rẽ, đó là:
M a(pq) 2pqd
II.2. Gía trị kiểu gen và giá trị chọn giống
Vì mỗi thế hệ hình thành tổ hợp mới của gen và bố mẹ truyền cho con cái các
gen chứ không phải kiểu gen nên điều quan trọng là phải xác định một giá trị đôi khi
thay một gen này bằng một gen khác. Giá trị đó là hiệu ứng trung bình của gen.
Galconer (1986) định nghĩa hiệu ứng trung bình của một gen là độ lệch trung bình so
với trung bình quần thể của các cá thể nhận gen đó từ một bố mẹ, còn gen từ bố mẹ kia
ngẫu nhiên từ quần thể. Quá trình đó được thể hiện dưới đây:
GIAO TỬ
KIỂU GEN THẾ HỆ CON
A1A1
A1A2
A2A2
a d -a
HIỆU ỨNG TRUNG BÌNH
A1
A2
p q
p q
1 pa pd M qa dq p
2 qa pd M pa d q p
Hiệu ứng trung bình của sự thay thế gen là:
a dq p 1 2
Sự cải tiến di truyền của một tính trạng số lượng phụ thuộc vào hiệu quả chọn
lọc giữa các cá thể khác nhau về giá trị kiểu gen. Như đã nói ở trên bố mẹ truyền cho
con cái các gen chứ không phải kiểu gen, vì thế, chính hiệu ứng trung bình gen của bố
mẹ xác định giá trị kiểu gen trung bình của thế hệ con. Giá trị của một cá thể được
đánh giá bởi giá trị trung bình của thế hệ con gọi là giá trị chọn giống của một cá thể.
8
Nói cách khác giá trị chọn giống của một cá thể bằng tổng hiệu ứng trung bình của các
gen của cá thể đó.
KIỂU GEN A1A1 A1A2 A2A2
Gía trị chọn giống 21
2q
a1 2
q p
2 2
2 p
II.3. Các thành phần phương sai
Ở tính trạng chất lượng kiểu gen biểu hiện không chỉ phụ thuộc vào các hiệu
ứng riêng rẽ của gen mà còn phụ thuộc vào tương tác của chúng. Đối với tính trạng đơn
gen (một locut) tương tác đó là giữa các alen tại locut (tương tác trong nội bộ locut hay
tương tác alen) và được gọi là trội. Trội có thể biểu hiện từ không hoàn toàn đến hoàn
toàn, một gen (gen trội) che lấp hiệu ứng của gen kia (gen ẩn). Điều đó có nghĩa là thể
dị hợp tử biểu hiện do gen trội và có cùng kiểu hình như cá thể đồng hợp tử trội. Nếu
không có trội thì thể dị hợp tử sẽ khác với cả hai thể đồng hợp tử và thường biểu hiện
mang tính trung gian. Với tính trạng chất lượng do nhiều hơn một locut kiểm soát (ví
dụ hai gen hay hai locut) thì ngoài tương tác trong nội bộ locut còn có tương tác giữa
các alen của các locut khác nhau (tương tác giữa các locut hay tương tác không alen)
và được gọi là ức chế.
Ngược lại với tính trạng chất lượng, tính trạng số lượng không chỉ do gen mà cả
môi trường kiểm soát. Giả sử, kiểu gen và môi trường độc lập với nhau, kiểu hình P
của một cá thể đối với tính trạng số lượng là kết quả của cả kiểu gen G và môi trường
E.
P = G + E
Cũng như tính trạng chất lượng, tính trạng số lượng cũng biểu hiện tương tác
trong nội bộ locut và giữa các locut. Do đó kiểu gen của tính trạng số lượng có thể biểu
thi bằng:
G = A + D + I
Trong đó A là hiệu ứng riêng rẽ của gen hay thành phần cộng tính trạng của
kiểu gen (Fisher, 1918); D là độ lệch trội hay thành phần do tương tác trong nội bộ
locut và I là thành phần do tương tác giữa các locut.
Như trên đã nói, nếu có thể định lượng được sự biểu hiện của kiểu gen, thì giá
trị của thể dị hợp tử ở một locut riêng rẽ bằng giá trị trung bình của 2 thể đồng hợp tử
nếu không có gen nào trội so với gen kia. Do đó, bất kì độ lệch nào so với giá trị trung
bình đều là dấu hiệu của sự có mặt của trội. Có ba mức trội là: trội không hoàn toàn –
giá trị của thể dị hợp tử nằm trong khoảng trung bình của hai thể đồng hợp tử và giá trị
của thể đồng hợp tử trội; trội hoàn toàn - giá trị của thể dị hợp tử bằng giá trị của thể
đồng hợp tử trội, và siêu trội - giá trị của thể dị hợp tử vượt ra ngoài phạm vi của hai
9
thể đồng hợp tử. Mối quan hệ giữa các giá trị kiểu gen ở một locut ở các mức trội khác
nhau được trình bày trong (bảng II.1)
Bảng II.1: Giá trị kiểu gen của thể dị hợp tử (G12 ) ở một locut với alen A1
và A2
so với hai thể đồng hợp tử (G11 và A1A1
và G11 cho A2A2
) và giá trị trung bình
của chúng ở các mức trội khác nhau.
ALEN TRỘI MỨC TRỘI
A1 A2
Không có trội
2
11 22
12
G G
G
2
11 22
12
G G
G
Trội không hoàn toàn 12 11
11 22
2
G G
G G
2
11 22
22 12
G G
G G
Trội hoàn toàn G12 G11 G22 G12
Siêu trội G11 G12 G12 G22
Nếu tính trạng được kiểm soát bởi nhiều locut, thành phần cộng của kiểu gen
bằng tổng hiệu ứng riêng rẽ của các alen của tất cả locut và thành phần trội bằng tổng
của tất cả tương tác trong nội bộ các locut. Bất kì độ lệch nào còn lại so với giá trị
trung bình của kiểu gen sau khi trừ đi hiệu ứng cộng và trội là do ức chế.
Mô hình đối với kiểu gen của một tính trạng số lượng kiểm soát bởi n locut có
thể biểu thị ở dạng sau:
G a a k d k I
n
k
ij
n
k
i j
1 1
Trong đó ai
, aj
, và dij tương ứng là hiệu ứng riêng rẽ của alen thứ i từ bố và alen
thứ j từ mẹ và tương tác giữa hai alen. Thành phần ức chế có thể phân chia thành tương
tác 2 gen, tương tác 3 gen... Trong mỗi tương tác lại có thể phân chia tiếp thành kiểu
tương tác hoàn toàn cộng tính (các gen riêng rẽ của các locut khác nhau tương tác với
nhau), kiểu tương tác cộng x trội (các alen riêng rẽ của một số locut tương tác với các
cặp alen của các locut khác) và kiểu tương tác hoàn toàn trội (tương tác giữa các cặp
alen) (Kempthorne, 1954)
Như vậy các gen kiểm soát tính trạng số lượng có thể hoạt động cộng mang tính
cộng gộp, có nghĩa là sự biểu hiện của một kiểu gen chỉ do hiệu ứng riêng rẽ của các
gen (còn gọi là hiệu ứng trung bình hay hiệu ứng cộng), hoặc không cộng gộp, có
nghĩa là một phần của sự biểu hiện kiểu gen do tương tác của gen (trong nội bộ locut
hay giữa các locut)
10
Mỗi một trong các yếu tố khác nhau kiểm soát kiểu hình của một cá thể với tính
trạng số lượng đều đóng góp vào sự khác nhau giữa các cá thể trong quần thể. Tổng
biến động hay phương sai kiểu hình 2 trong quần thể là:
2 2 2
P G E
Tổng phương sai di truyền 2 G bao gồm phương sai do hiệu ứng cộng hay hiệu
ứng trung bình của gen ( 2
A
), phương sai do hiệu ứng trội ( 2
D
) và phương sai do ức
chế hay tương tác giữa các gen ( 2
I
) (Kempthorne, 1954; Falconer, 1986). Phương sai
ức chế biểu thị thành phần biến động tàn dư và có thể chia thành các thành phần hoàn
toàn cộng ( 2 AA
,
2 AAA ...), cộng x trội ( 2 AD,
2 AAD,
2 AAD... ) và hoàn toàn trội ( 2 DD,
2
DDD ...). Ta có:
2 2 2 2
G A D I
III- ƯỚC LƯỢNG CÁC THÀNH PHẦN PHƯƠNG SAI DI TRUYỀN
Đọc tài liệu
IV- HỆ SỐ DI TRUYỀN VÀ HIỆU QUẢ CHỌN LỌC
Hiệu qủa chọn lọc đối với một tính trạng số lượng phụ thuộc vào ý nghĩa tương
đối của các yếu tố di truyền và không di truyền trong sự khác nhau kiểu hình giữa các
kiểu gen trong quần thể - một khái niệm gọi là hệ số di truyền. Hệ số di truyền được đo
bằng tỉ số của phương sai di truyền và phương sai kiểu hình hay tổng phương sai. Có
hai giá trị thường được sử dụng, hệ số di truyền nghĩa rộng,
2 2 2
b G P
h , và hệ số di
truyền nghĩa hẹp,
2 2 2
n A P
h . Có thể ước lượng hệ số di truyền của một tính trạng
bằng nhiều phương pháp khác nhau bao gồm phương pháp phân tích thế hệ phân li (F2
và con lai lại) và thế hệ không phân li (bố mẹ và F1
) (Mather, 1949), tương quan giữa
bố mẹ và con lai (Frey và Horner, 1957) và phương pháp phân tích thành phần phương
sai. Trong các phương pháp nêu trên, phương pháp phân tích thành phần phương sai
cung cấp tính linh động lớn nhất để dự đoán hiệu quả của các phương pháp chọn lọc.
Thành phần phương sai có thể sử dụng để tính toán hệ số di truyền trên cơ sở cá thể, ô
thí nghiệm và dòng.
Vì hệ số di truyền là một đại lượng thống kê biểu thị tỉ số giữa các phương sai
nên h2
là một đại lượng đặc trưng cho quần thể xác định trong một môi trường xác
định. Bản thân giá trị di truyền của một quần thể không nói lên tính ưu việt của quần
thể đó. Giá trị h2
dao động trong khoảng từ 0 đến 1.Trong một dòng thuần các cá thể có