Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Bách khoa thư các Khoa học Triết học I
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
G.W.F. HEGEL
BÁCH KHOA THƯ
CÁC KHOA HỌC TRIẾT HỌC I
KHOA HỌC LÔGÍC
(LOGIK DER ENZYKCLOPÄDIE)
BÙI VĂN NAM SƠN
dịch và chú giải
N Ộ I D U N G
Mấy lời giới thiệu và lưu ý của người dịch: “Bách khoa thư các khoa học triết
học”: Từ tham vọng hệ thống đến học thuyết về Chân lý và Tự do
…………………………………………...……...………………………..... XI-XCV
G. W. F. HEGEL
BÁCH KHOA THƯ CÁC KHOA HỌC TRIẾT HỌC (1830)
PHẦN THỨ NHẤT
KHOA HỌC LÔGÍC
và các đoạn Giảng thêm bằng miệng
Lời Tựa cho lần xuất bản thứ nhất (1817).................................................................1
Chú giải dẫn nhập cho Lời Tựa 1 ................................................................................5
Lời Tựa cho lần xuất bản thứ hai (1827) ...................................................................9
Chú giải dẫn nhập cho Lời Tựa 2 ..............................................................................25
Lời Tựa cho lần xuất bản thứ ba (1830) ..................................................................31
Chú giải dẫn nhập cho Lời Tựa 3 ..............................................................................36
Dẫn nhập: §§1-18 .......................................................................................................38
Chú giải dẫn nhập:§§ 1-18 ........................................................................................58
PHẦN THỨ NHẤT
KHOA HỌC LÔGÍC
§§19-244
Khái niệm sơ bộ: §§19-83..........................................................................................64
A. Lập trường thứ nhất của tư tưởng đối với tính khách quan.
Siêu hình học. §§26-36.......................................................................................89
B. Lập trường thứ hai của tư tưởng đối với tính khách quan.
§§37-60.............................................................................................................105
I. Thuyết duy nghiệm. §37 ...............................................................................105
II. Triết học phê phán. §40 ...............................................................................110
C. Lập trường thứ ba của tư tưởng đối với tính khách quan.
Cái Biết trực tiếp. §§61-78 ...............................................................................145
Chú giải dẫn nhập: §§19-78 ................................................................................163
Quan niệm chính xác hơn về Lôgíc học và sự phân chia nội dung của nó. §§79-83
...............................................................................................................................174
Chú giải dẫn nhập: §§79-83 ................................................................................187
I. HỌC THUYẾT VỀ TỒN TẠI. §§84-111 ...........................................................195
Chú giải dẫn nhập: Từ §84 đến §244 (hết phần Khoa học Lôgíc) đều có Chú giải
dẫn nhập cho từng tiểu đoạn (§).
A. Chất. §86 ..........................................................................................................202
a. tồn tại. §86 ....................................................................................................202
b. tồn tại-hiện có. §89.......................................................................................221
c. tồn tại-cho-mình. §96....................................................................................236
B. Lượng. §99 .......................................................................................................245
a. lượng thuần túy. §99.....................................................................................245
b. đại lượng. §101.............................................................................................252
c. độ. §103 ........................................................................................................253
C. Hạn độ. §107 ....................................................................................................270
II. HỌC THUYẾT VỀ BẢN CHẤT. §§112-159....................................................285
A. Bản chất như là cơ sở của sự hiện hữu. §115...................................................302
a. Các quy định thuần túy của sự phản tư. §115...............................................302
1. sự đồng nhất. §115...................................................................................302
2. sự khác biệt. §116....................................................................................308
3. cơ sở. §121...............................................................................................330
b. sự hiện hữu. §123 .........................................................................................342
c. sự vật. §125...................................................................................................349
B. Hiện tượng. §131..............................................................................................366
a. thế giới hiện tượng. §132..............................................................................372
b. nội dung và hình thức. §133 .........................................................................375
c. sự quan hệ. §135...........................................................................................384
C. Hiện thực. §142 ................................................................................................406
a. Quan hệ về tính bản thể. §150 ......................................................................442
b. Quan hệ về tính nhân quả. §153 ...................................................................453
c. Tác động qua lại [hay sự tương tác]. §155 ...................................................463
III. HỌC THUYẾT VỀ KHÁI NIỆM. §§160-244 ................................................482
A. Khái niệm chủ quan. §163................................................................................482
a. Khái niệm xét như là Khái niệm. §163 ......................................................494
b. Phán đoán. §166.........................................................................................509
1. phán đoán về chất. §172........................................................................526
2. phán đoán của sự phản tư. §174 ............................................................534
3. phán đoán của sự tất yếu. §177 .............................................................542
4. phán đoán của Khái niệm. §178 ............................................................549
c. Suy luận. §181............................................................................................554
1. Suy luận về chất. §183 ..........................................................................562
2. Suy luận của sự phản tư. §190...............................................................578
3. Suy luận của sự tất yếu. §191................................................................587
B. Khách thể. §194................................................................................................601
a. Cơ giới luận. §195......................................................................................607
b. Hóa học luận. §200 ....................................................................................621
c. Mục đích luận. §204...................................................................................629
C. Ý niệm. §213 ....................................................................................................658
a. Sự sống. §216 .............................................................................................673
b. Nhận thức. §223.........................................................................................695
1. Nhận thức [nghĩa hẹp]. §226.................................................................705
2. Ý muốn. §233........................................................................................725
3. Ý niệm tuyệt đối. §236..........................................................................738
(HẾT)
Bảng chỉ mục tên riêng và thuật ngữ: Việt - Ðức - Anh - Pháp ..........................769
Bảng chỉ mục tên riêng và thuật ngữ: Ðức - Anh - Pháp - Việt ..........................782
Thư mục chọn lọc.....................................................................................................799
1
LỜI TỰA
CHO LẦN XUẤT BẢN THỨ NHẤT
(1817)(1)
S11(1) 1. Nhu cầu cung cấp cho những người nghe một hướng dẫn để theo dõi các
khóa giảng triết học của tôi là cơ hội trực tiếp nhất khiến tôi cho ra mắt
tập sách tổng quan này về toàn bộ phạm vi của triết học sớm hơn dự định.
2. Tính chất của một tập sách đại cương tất nhiên không bao gồm một sự
trình bày cặn kẽ những ý tưởng xét về mặt nội dung mà nhất là còn bị giới
hạn ở việc trình bày sự diễn dịch có hệ thống về chúng; tức một sự trình
bày phải chứa đựng những gì thường được gọi là sự chứng minh(2)
, vốn
thiết yếu đối với một môn triết học [xứng danh là] khoa học. Nhan đề của
tập sách này, một mặt, cho thấy toàn thể phạm vi của một [Hệ thống] toàn
bộ, nhưng mặt khác, lại cho thấy ý định của tôi là dành việc lý giải chi tiết
cho phần trình bày bằng miệng.
3. Vả chăng, trong một tập Đại cương [theo cách hiểu thông thường], khi nội
dung là những gì đã được tiền giả định và đã quen thuộc cũng như phải
được trình bày trong một khuôn khổ ngắn gọn, thì mục đích của nó là sắp
xếp nội dung ấy sao cho phù hợp một cách ngoại tại. Song, bộ sách này
(1) Số trang bên lề trái mỗi trang là số trang trong tập 8, “Tác phẩm gồm 20 tập” của NXB Suhrkamp
(viết tắt: S) (“Werke in zwanzig Bänden”, Suhrkamp Taschenbuch Wissenschaft, 608), thường được
dùng làm căn cứ trích dẫn trong giới nghiên cứu về Hegel. Dấu * là chú thích của tác giả; dấu (1), (2)…
là chú thích của người dịch; dấu [ ] là phần nói thêm và dấu | là chỗ chấm câu lại của người dịch. Các
chỗ in nghiêng là theo bản Suhrkamp. Những thuật ngữ quan trọng được chúng tôi ghi lại bằng nguyên
văn tiếng Đức (dấu: a, b…) ở cuối trang, kèm cách dịch sang tiếng Anh của ba dịch giả T. F. Geraets,
W. A. Suchting và H. S. Harris (The Encyclopaedia Logic; Hackett Publishing Company, Inc,
Cambridge, 1991) và, tùy trường hợp, của W. Wallace (Hegel’s Logic, Oxford, 1873 / 1892 / 1975) để
bạn đọc dễ tham khảo.
(1) Ngay từ 1802, Hegel đã thông báo ý định trình bày triết học của mình như một Hệ thống, nhưng mãi
đến năm 1817, ông mới cho ra mắt Bộ Bách khoa thư này. Ông vẫn chưa xem nó là hoàn tất, nên liên
tục cải tiến trong hai lần tái bản sau (1827 và 1830). Mỗi lần tái bản, ông viết thêm một Lời tựa mới.
Xem thêm: Chú giải dẫn nhập I.
(2) Theo Hegel, “Chứng minh”, cùng với “Khái niệm” và “Hệ thống”, là một trong ba tiêu chuẩn của
“Hệ thống khoa học”. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, Hegel luôn phản đối phương pháp “chứng minh” triết
học bằng cách mô phỏng phương pháp của toán học vốn thịnh hành lúc đương thời. Xem thêm: Lời
Tựa cho Hiện tượng học Tinh thần.
2
S12
lại không phải như thế. | Nó nhằm trình bày một sự cải tiến mới mẻ về
triết học, dựa theo một phương pháp mà tôi hy vọng là sẽ được thừa nhận
như là một phương pháp duy nhất đúng thật, một phương pháp hoàn toàn
đồng nhất với nội dung của nó. | Vì thế, nếu hoàn cảnh cho phép, tôi nghĩ
sẽ có lợi nhiều hơn cho người đọc khi mang lại cho độc giả một công trình
cặn kẽ hơn về các bộ phận khác của triết học [triết học về Tự nhiên và
triết học về Tinh thần, tức hai tập II và III của Bộ Bách khoa thư] dựa theo
mô hình của Lôgíc học đã được tôi công bố như là phần nghiên cứu về bộ
phận thứ nhất của cái Toàn bộ [hệ thống]. Tuy nhiên, tôi tin rằng, cho dù
trong bộ sách này, [hai] phần nội dung nói trên – vốn gần gũi với sự hình
dung bằng biểu tượng
(a) và với những gì đã quen thuộc về mặt thường
nghiệm – buộc phải chịu giới hạn về độ dài, tôi vẫn cố làm rõ rằng, đối
với những sự quá độ [sang Tự nhiên và Tinh thần] – vốn chỉ có thể là một
sự trung giới diễn ra thông qua Khái niệm
(3) –, thì phương pháp của sự
vận động tiến lên [của chúng] hoàn toàn khác với cả hai điều sau đây: vừa
khác với trình tự ngoại tại như các ngành khoa học khác đòi hỏi, vừa khác
với “kiểu làm dáng” đã trở nên khá quen thuộc trong việc xử lý các đối
tượng triết học
(4). | “Kiểu làm dáng” thời thượng này tiền-giả định một sơ
đồ(a), rồi sử dụng sơ đồ ấy để xác lập các sự song hành với chất liệu
[nghiên cứu] một cách cũng ngoại tại và thậm chí còn tùy tiện hơn so với
phương cách ngoại tại của các ngành khoa học khác, và, do một sự ngộ
nhận kỳ lạ nhất, nó tỏ ra hài lòng về sự tất yếu của Khái niệm với toàn là
những sự nối kết tùy tiện và bất tất.
(a) Vorstellung / Anh: representative awareness.
(3) Khi Hegel đối lập “Khái niệm” với “sự hình dung bằng biểu tượng và những gì đã quen thuộc về
mặt thường nghiệm”, ông không muốn nói đến một hệ thống khái niệm trừu tượng, một “trật tự ngoại
tại” thâu gồm cái thường nghiệm theo cách hiểu thông thường, trái lại, muốn nói đến Lôgíc học tư biện
vạch rõ sự hạn chế của mọi tính bất tất và tùy tiện, để cho bản thân Sự việc tự thể hiện ra trong tiến
trình “quá độ” và “tiến lên” từ Khái niệm này sang Khái niệm kia.
(a) ein Schema voraussetzt / presupposes a schema.
(4) “Kiểu làm dáng”: ám chỉ trường phái Schelling (H. Steffens, J. Görres, J. J. Wagner…) (đã bị Hegel
phê phán trong Lời Tựa quyển Hiện tượng học Tinh thần (viết tắt: HTHTT) mười năm trước), biến
“triết học về sự đồng nhất” thành một “sơ đồ”. (Xem HTHTT, §15, BVNS dịch và chú giải, NXB Văn
học 2006, tr. 26 và tiếp).
3
4. Ta cũng đã thấy sự tùy tiện tương tự đang chiếm lĩnh nội dung của triết
học, bộc lộ sự phiêu lưu của tư tưởng
(5) và đè nặng một thời gian khá dài
lên nỗ lực của những đầu óc nghiêm túc và chân thành, mặc dù, ở phía
khác, nó bị xem là sự ngông cuồng đã đạt tới tột đỉnh của sự điên rồ
(6)
.
Nhưng, bất chấp vẻ oai vệ hay điên rồ, thực chất của nó cho ta thấy ngày
càng rõ những sáo ngữ quen thuộc cũng như cho thấy rõ hình thức của nó
chỉ đơn thuần là trò làm dáng của một mánh khóe cố ý, dễ học, thiện nghệ
trong việc liên tưởng kiểu “baroque” [hoa mỹ, lố bịch] với sự rối rắm đầy
vất vả. | Nói thật, đây chỉ là sự tự lừa bịp chính mình và lừa bịp công luận
đằng sau tấm mặt nạ trịnh trọng mà thôi. Nhưng, ở phía ngược lại, ta cũng
thấy sự nông cạn của việc thiếu vắng tư tưởng bị đóng đinh thành một
thuyết hoài nghi tưởng như hiền minh lắm dưới mắt họ và thành một thứ
triết học phê phán rất khiêm tốn trong các yêu sách của nó đối với lý
tính(7); tư tưởng của họ càng rỗng tuếch bao nhiêu thì lòng kiêu ngạo và
huênh hoang của họ càng lớn lên bấy nhiêu! – Trong một thời kỳ khá dài,
hai luồng tư tưởng này đã học đòi tính nghiêm chỉnh của nước Đức,
nhưng lại làm mỏi mệt nhu cầu triết học sâu xa hơn của nó. | Hậu quả là
sự bàng quan, dửng dưng, vâng, thậm chí là một sự khinh rẻ đối với triết
học xét như là một khoa học, khiến cho ngày nay, một sự khiêm tốn tự
xưng như thế tưởng rằng mình có quyền ăn nói, bàn thảo về những vấn đề
sâu xa nhất của triết học và có quyền phủ nhận nhận thức thuần lý đối với
triết học, một nhận thức vốn thường được hiểu dưới hình thức của những
“luận cứ chứng minh”.
5. Trong hai hiện tượng đã đề cập thì hiện tượng thứ nhất có thể phần nào
được xem như là nhiệt tình của tuổi trẻ trước thời đại mới và đã bộc phát
trong lĩnh vực khoa học cũng như chính trị. Nếu lòng nhiệt tình này say
sưa đón mừng buổi bình minh của Tinh thần-đã-tươi-trẻ-lại, lập tức
(5) Ám chỉ “kiểu làm dáng” nói trên.
(6) Ám chỉ Jean Paul (trong tiểu thuyết Titan) tìm nơi trú ẩn bằng cách chìm đắm vào việc nghiên cứu
“triết học đồng nhất”.
(7) Ám chỉ phái hoài nghi (còn gọi là “phái Common Sense) của G. E. Schulze và W. T. Krug và nhất là
môn “Tâm lý học thường nghiệm” (của Jacob Friedrich Fries) (xem HTHTT, Sđd, tr. 246 và chú thích
200 của N.D). Xem thêm: Chú giải dẫn nhập cho Lời Tựa I.
4
S13 thưởng thức Ý niệm mà không cần lao động vất vả gì hết, thỏa thích ít lâu
trong niềm hy vọng và viễn tượng do buổi bình minh này đã mở ra, ta dễ
dàng thông cảm với sự cuồng nhiệt quá đáng của nó, bởi tận nền tảng, vẫn
có một hạt nhân [chân lý] nơi nó, còn lớp sương mù ban mai đang che
phủ chân tướng của nó ắt sẽ sớm tự tan đi
(8). Nhưng, chính hiện tượng thứ
hai mới là đáng kinh tởm hơn, bởi ta thấy rõ sự cạn kiệt và bất lực nơi nó
cho dù nó cố ngụy trang và tỏ vẻ là bậc thầy tư tưởng cho muôn thế hệ
triết gia, nhưng lại không hiểu họ là ai và nhất là không biết cả chính mình
là gì.
6. Tuy nhiên, vẫn có một điều đáng vui mừng hơn khi nhận ra và cần nhắc
đến, đó là: khác với hai xu hướng trên, sự quan tâm đối với triết học và
tình yêu nghiêm chỉnh dành cho sự nhận thức cao hơn [do sự quan tâm ấy
tạo ra] vẫn không suy suyển và không hề khoa trương. Cho dù sự quan
tâm này đôi khi còn buộc mình quá chặt trong hình thức của một cái Biết
trực tiếp và của tình cảm, song, nó vẫn biểu lộ động lực mạnh mẽ bên
trong để hướng tới sự thức nhận hợp lý tính, một sự thức nhận duy nhất
mang lại phẩm giá cho con người. | Trên hết, nó biểu lộ được điều này,
bởi người ta đạt tới quan điểm [hay chỗ đứng] về cái Biết trực tiếp chỉ như
là kết quả của cái Biết triết học, khiến cho cái Biết triết học – mà nó
dường như khinh rẻ – chí ít cũng đã được nó thừa nhận như là một điều
kiện
(9). – Dành cho sự quan tâm này đối với việc nhận thức về Chân lý, tôi
xin nỗ lực cung cấp một sự dẫn nhập hay một đóng góp để thỏa mãn nó.
Mong rằng một mục đích như thế sẽ được sự quan tâm này đón nhận một
cách thuận lợi.
Heidelberg, tháng năm, 1817.
(8) Dù sao, Hegel vẫn xem phái “Triết học đồng nhất” (hay còn gọi là phái “tri thức trực tiếp”, “phái
Lãng mạn”) chung quanh Schelling và Jacobi là có “hạt nhân chân lý” vì gần gũi với triết học tư biện
của ông, trong khi ông xem phái hoài nghi là “nguy hại” hơn. (“Lòng nhiệt tình say sưa” ám chỉ yêu
sách xem “Chân lý là đám rước cuồng nhiệt thần Bacchus” trong “Buổi bình minh của Tinh thần-đãtươi-trở-lại”. Xem HTHTT, §§11, 47).
(9) Nhận xét khá thiện cảm về “cái biết trực tiếp” (ám chỉ Jacobi), vì Hegel xem lập trường của Jacobi
là sự quá độ từ thuyết duy nghiệm phê phán của phần lớn những người chịu ảnh hưởng của Kant sang
“triết học tư biện”. (Xem: Chú giải dẫn nhập tiếp theo đây và Chú giải dẫn nhập cho §§61-78).
5
CHÚ GIẢI DẪN NHẬP
LỜI TỰA CHO LẦN XUẤT BẢN THỨ NHẤT (1817)
Triết học như là MỘT Triết học, MỘT Hệ thống, MỘT Phương pháp “duy nhất
đúng”
Hegel đã viết ba Lời Tựa cho ba lần xuất bản của bộ Bách khoa thư (1817, 1827, 1830).
Tính chất của ba Lời Tựa này được Hegel nói rõ trong Lời Tựa II. Theo ông, đó là việc
“phải lên tiếng về những vấn đề vốn nằm bên ngoài hoạt động triết học” do có “quá nhiều
tình huống và sự kích thích”. Ông biết rằng “thật là bất tiện và thậm chí nguy hiểm khi
dấn mình vào một lĩnh vực xa lạ với lĩnh vực khoa học” (Lời Tựa II, §14). Vì thế, ba Lời
Tựa trở thành ba tiểu luận có tính “phê phán thời đại”, gắn liền việc phê phán các trào lưu
đương thời với mục đích minh định lập trường và giá trị của nền triết học của chính ông.
Để làm việc ấy, ông phải dùng lối viết tranh luận, có khi rất gay gắt và “hung hăng”; và
chính lối hành văn này, trong thực tế, đã làm giảm hơn là làm tăng uy tín của ông, nhất là
đã gây tổn hại không ít đến việc tiếp thu công trình này. Phần đông các tác giả đời sau
không ưa ông đã không ngừng trích dẫn từ ba Lời Tựa này để công kích ông, cho nên, có
thể nói, ba Lời Tựa này là một thất bại, hay ít ra là một việc công bố “thiếu may mắn” của
Hegel, che mờ nội dung đích thực của tác phẩm. Ta có thể hiểu thêm nhiều về Hegel qua
ba Lời Tựa này, nhưng, để đến với ông một cách cởi mở và “thanh tân” hơn, có lẽ nên bắt
đầu đọc từ phần “Dẫn nhập”!
- Hegel nhấn mạnh ngay từ đầu rằng công trình này chỉ là một tập “Đại cương”
(Grundriss) cho một “Bách khoa thư các Khoa học triết học”. Nhiệm vụ của một tập
“Đại cương" là mang lại một cái nhìn tổng quan về “toàn bộ” Triết học, còn về “nội
dung” và “sự chứng minh” thì dành cho việc minh giải thêm bằng miệng. (Phần Giảng
thêm này được các môn sinh ghi lại và được dịch trọn vẹn, chỉ có điều ta không biết nó
có thực sự “đầy đủ” chưa).
- Điều quan trọng cần chú ý ở đây là: Hegel không nói về triết học “của ông” mà giới
thiệu một “tổng quan về toàn bộ phạm vi của triết học” (§11), trình bày “một sự cải
tiến mới mẻ về triết học”. Ta nhớ đến một giai thoại nổi tiếng khi Hegel trả lời sự tán
dương của một mệnh phụ phu nhân ở Berlin: “Cái gì trong triết học của tôi mà là “của
tôi” thì là sai!”. Không phải Hegel tỏ ra khiêm tốn về cá nhân mình, mà muốn nói
nhiều hơn thế: ông có tham vọng theo đuổi “một phương pháp mà tôi hy vọng sẽ được
6
thừa nhận như là một phương pháp duy nhất đúng, một phương pháp hoàn toàn đồng
nhất với nội dung của nó” (§11, 3). Quan niệm về một phương pháp “đồng nhất” với
nội dung chính là đòi hỏi rằng sự vận động của Khái niệm phải đồng nhất với sự vận
động của bản thân Sự việc. Nói khác đi, như ông sẽ khẳng định ở §13 về quan niệm
của ông về lịch sử của triết học: “Nơi các nền triết học khác nhau ấy, lịch sử của triết
học một mặt cho thấy rằng chỉ có Một triết học ở các giai đoạn hình thành khác nhau,
và, mặt khác, cho thấy rằng các nguyên tắc đặc thù làm nền tảng cho từng mỗi hệ
thống đều chỉ là các chi nhánh của một và cùng một cái toàn bộ. Nền triết học ra đời
muộn nhất về mặt thời gian là kết quả của mọi nền triết học ra đời trước đó, và, vì thế,
chứa đựng các nguyên tắc của tất cả chúng; cho nên, nếu nó quả xứng đáng với danh
hiệu triết học, thì nó là nền triết học được khai triển nhiều nhất, phong phú nhất và cụ
thể nhất” (§58).
Quan niệm về Một triết học với phương pháp duy nhất đúng và, do đó, xem mọi triết
học khác đều chỉ là các chi nhánh hay các cấp độ thấp kém sẽ phải được vượt bỏ trong
Hệ thống triết học tối hậu làm cho Hegel trở thành người đầu tiên viết lịch sử của triết
học như một toàn bộ có hệ thống, nhưng đồng thời cũng trở thành cha đẻ của phong
cách độc đoán, thủ tiêu đối thoại trong quan hệ với Nhiều nền triết học khác. Với
Hegel, không thể có “các cái nhìn khác nhau về triết học, bởi không thể bảo… “ánh
sáng và bóng tối là hai loại ánh sáng khác nhau được!” (§13, S59). (Xem: Chú giải
dẫn nhập cho §§26-78).
- Sau đó, Hegel mở màn một cuộc tấn công trên hai “mặt trận” và cuộc tấn công này,
tuy có thay đổi chút ít về màu sắc, vẫn là nét chủ đạo trong cả ba Lời Tựa.
Một mặt, Hegel phê phán các phương pháp đang thịnh hành trong các khoa học “khác”
– tức trong các khoa học thường nghiệm – chuyên sắp xếp “những chất liệu” theo một
trật tự ngoại tại, đồng thời cũng là các phương pháp trong các trào lưu triết học muốn
gò ép các nội dung nhận thức có sẵn vào trong những “sơ đồ” được tiền-giả định. Sự
phê phán này có vẻ vừa nhắm đến tàn dư của triết học trường ốc thuộc trường phái
siêu hình học của Leibniz-Wolff, vừa nhắm đến một số những “cấu tạo” theo kiểu sơ
đồ nơi Kant. Sự phê phán này cũng dành cả cho khuynh hướng triết học tư biện mà
người đọc đương thời dễ dàng nhận ra là muốn ám chỉ trường phái Schelling, nhất là
việc áp dụng một cách khá bí hiểm phương pháp về “Lực” (Potenzen-Methode) của
Schelling trong triết học-tự nhiên của chủ nghĩa lãng mạn. Hegel dành những lời khá
nặng nề cho khuynh hướng này: sự “lừa bịp chính mình và lừa bịp công chúng”! (Xem
7
thêm: Phê phán triết học Schelling trong Hiện tượng học Tinh thần, Lời Tựa, BVNS
dịch và chú giải, tr. 28 và tiếp).
Hướng tấn công thứ hai của Hegel là nhằm chống lại cái mà ông gọi là sự “nông cạn
của việc thiếu vắng tư tưởng", “huênh hoang và rỗng tuếch” (§12, 4). Ông muốn nói
đến môn Tâm lý học thường nghiệm, hay đúng hơn một thứ “chủ nghĩa Kant bị tâm lý
học hóa” của Jacob Friedrich Fries (bạn đồng nghiệp của Hegel ở Jena và sau đó,
Hegel kế thừa ghế giáo sư của J. F, Fries ở Heidelberg sau khi J. F. Fries bị cách chức
nào năm 1817). Theo Hegel (xem: Bách khoa thư III, Triết học về Tinh thần: §§377-
387 và Lời Tựa cho “Các nguyên lý của triết học về pháp quyền”, 1821), “tinh thần
chủ quan” là một “tấm gương phản ánh Ý niệm vĩnh cửu”, do đó chỉ có triết học – chứ
không phải tâm lý học thường nghiệm – mới có thể nghiên cứu được nó một cách trọn
vẹn. Tâm lý học thường nghiệm chỉ quan sát và mô tả những “quan năng” của tinh
thần con người, nhưng không “suy tưởng" về chúng, do đó, xem Tinh thần chủ quan –
vốn là hình thái hữu hạn sống động của sự vô hạn tuyệt đối – như là một tinh thần tĩnh
tại chứ không phải như sự biến động, như sự phủ định, nói ngắn, như là “hoạt động”.
Theo Hegel, tinh thần không phải là cái gì “cũng” hoạt động mà là bản thân sự hoạt
động, nên chỉ có phương pháp triết học tư biện mới lý giải được Tinh thần (chủ quan)
của con người. Đối với “hiện tượng" thứ hai này – mà Hegel gọi là “đáng kinh tởm
hơn” vì “sự cạn kiệt và bất lực nơi nó” – Hegel chỉ dành cho nó sự khinh bỉ!
- Lời Tựa lại kết thúc bất ngờ bằng một sự hòa dịu, vì ông tin rằng trong các trào lưu bị
ông phê phán đầu tiên, dù sao “tình yêu nghiêm chỉnh đối với nhận thức cao hơn” và
“sự quan tâm đến nhận thức về Chân lý” vẫn chưa hoàn toàn bị bóp nghẹt. Sai lầm của
chúng chỉ là “nhiệt tình bộc phát của tuổi trẻ tưởng có thể thưởng thức Ý niệm mà
không cần lao động vất vả gì hết” nên “có thể thông cảm” được (S13, 5). Đặc biệt, đối
với Friedrich Heinrich Jacobi – người chủ trương một cái Biết trực tiếp về cái Tuyệt
đối bằng trực quan và lòng tin –, Hegel có sự thay đổi thái độ đáng chú ý. Nếu trong
các tác phẩm thời trẻ (“Tin và Biết”, 1802; “Điểm sách về Jacobi”, 1817), Hegel đả
kích Jacobi kịch liệt, thì nay ông thấy Jacobi vẫn là kẻ gần gũi ông nhất trong lòng tin
vào khả năng nhận thức được Chân lý tuyệt đối, thậm chí, ông muốn dành cả bộ Bách
khoa thư này để “cung cấp một sự dẫn nhập hay một đóng góp để thỏa mãn nó”
(S13.6), nói rõ hơn, là để nâng “lòng tin trực tiếp” ấy lên cấp độ của nhận thức tư biện
bằng “Khái niệm” của Hegel. Trong Lời Tựa II, ông xem sự “hạn chế” của trào lưu
này chỉ là do “hoàn cảnh bên ngoài của tôn giáo trong một thời kỳ đặc thù mà thôi”
(như là một phản ứng trước triết học Khai minh và trước sự phê phán của Kant): “Một
8
thời kỳ như thế quả là đáng phàn nàn, vì nhu cầu bức bách lúc bấy giờ chỉ là tạo nên
đức tin đơn thuần đối với Thượng đế – một nhu cầu mà ngay cả một triết gia kiệt xuất
như Jacobi cũng rất xem trọng – và cũng chỉ để đánh thức một đức tin Kitô giáo lấy
tình cảm làm trung tâm điểm” (Lời Tựa II, S28, 11). Hegel viết tiếp ngay: “Dù vậy, ta
đồng thời không thể không thừa nhận những nguyên tắc cao hơn [tức: những nguyên
tắc tư biện của Hegel] cũng được thể hiện ở trong đó” (nt, S28, 11).
- Lời Tựa II sẽ là nơi Hegel nhấn mạnh và biện minh quyết liệt cho “những nguyên tắc
cao hơn” ấy và sẽ còn phân tích, phê phán cặn kẽ chủ trương của Jacobi trong phần
Dẫn nhập: §61-78: “Lập trường thứ ba của tư tưởng đối với tính khách quan: Cái Biết
trực tiếp”. Xem thêm: Chú giải dẫn nhập cho §§61-78).