Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

7 Câu hỏi lịch sử triết học
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
Phần 1: Trả lời 7 câu hỏi lịch sử triết học (thầy Quyên)
Câu 1. Tư tưởng cơ bản của Phật giáo. Ảnh hưởng của nó với đời sống tinh thần
người VN? Liên hệ phật giáo VN
Ấn Độ cổ đại là một quốc gia rộng lớn ở miền nam Châu Á, có lịch sử lâu đời
và nền văn minh sớm phát triển và đạt đến trình độ rực rở; với điều kiện tự nhiên đa
dạng, sự phân biệt đẳng cấp cự kỳ khắc nghiệt, là cơ sở cho sự nảy sinh và phát triển
những tư tưởng triết học của Ấn Độ thờ cổ, trung đại với các hình thức phong phú đa
dạng.
Triết học Ấn Độ cổ, trung đại chịu ảnh hưởng lớn của những tư tưởng tôn giáo
rất khó phân biệt. Trong đó, quan điểm duy vật và duy tâm thường đan xen vào nhau
trong quá trình vận động phát triển.
Hầu hết các trường phái triết học đều tập trung giải quyết vấn đề “nhân sinh”
và tìm con đường “giải thoát” cho con người khỏi nỗi khổ đau trong đời sống trần
tục. Tuy nhiên, do hạn chế về nhận thức, do sự chi phối của quan điểm giai cấp, của
những tư tưởng tôn giáo nên hầu hết các học thuyết triết học Ấn Độ cổ, trung đại lại
đi tìm nguyên nhân của sự khổ đau của con người không phải ở trong đời sống kinh
tế, xã hội mà trong ý thức, trong sự “vô minh”, sự ham muốn của con người. Vì vậy,
“con đường giải thoát con người” đều mang sắc thái duy tâm.
Trong các trường phái triết học Ấn Độ cổ, phật giáo được xem là một trào lưu
triết học lớn có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hoá tinh thần của các nước
phương Đông trong đó có Việt nam ta.
Phật giáo là một trào lưu tôn giáo triết học xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ VI
tr.CN. Người sáng lập ra phật giáo tên là Siddharta (Tất Đạt Đa), họ là Gôtama, dòng
họ này thuộc bộ tộc Sakya. Ông là thái tử của vua Tịnh Phạn , vua một nước nhỏ ở
Bắc Ấn Độ lúc đó (nay thuộc đất Nêpan) sáng lập.
Về năm sinh của phật hiện nay có nhiều tài liệu khác nhau nhưng nhìn chung
nhiều ý kiến cho rằng phật sinh vào năm 563 tr.CN. Ông sinh ngày 8/4 năm 563
tr.CN, nhưng theo truyền thống phật lịch thì tính là ngày 15/4 (rằm tháng tư) gọi là
ngày Phật đản.
Mặc dù sinh ra trong gia đình quý tộc dòng dõi Đế Vương, nhưng trước bối
cảnh xã hội phân chia đẳng cấp khắc nghiệt, sự bất lực của con người trước những
khó khăn của cuộc đời và xã hội khiến ông sớm có ý định từ bỏ cuộc đời giàu sang
phú quý để đi tìm một đạo lý cứu đời. Năm 29 tuổi Tất Đạt Đa rời bỏ hoàng cung
xuất gia tu đạo, đến năm 35 tuổi Người đã giác ngộ tìm ra chân lý, tìm ra con đường
giải thoát nỗi khổ cho chúng sinh. Ông trở thành người sáng lập ra tôn giáo mới gọi là
phật giáo.
2
Từ đó Người đi khắp nơi truyền đạo lý của mình, sau này ông được suy tôn với
nhiều danh hiệu khác nhau như: Đức phật (Buddha), Người giác ngộ hay Thích ca
mâu ni (Sakyamuni), Thánh thích ca (vị thánh dòng họ thích ca).
Xét về mặt triết học, phật giáo được coi là triết lý thâm trầm về vũ trụ và con
người. Với mục đích nhằm giải phóng con người khỏi mọi khổ đau bằng chính cuộc
sống đức độ của con người, phật giáo nhanh chóng đã chiếm được tình cảm và niềm
tin của đông đảo quần chúng lao động. Nó đã trở thành biểu tượng của lòng từ bi bác
ái trong đạo đức truyền thống của các dân tộc Châu Á.
Học thuyết phật giáo đề cập đến nhiều nội dung khác nhau. Nhưng ở đây
chúng ta chỉ tìm hiểu vấn đề về thế giới quan và nhân sinh quan.
- Quan điểm về thế giới quan của phật giáo.Được thể hiện tập trung ở nội dung
của ba phạm trù là: vô ngã, vô thường, và duyên.
Quan điểm “vô ngã” cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người không
phải do một vị thần nào sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết hợp của hai yếu tố
là “sắc” và “danh”. Trong đó “sắc” là yếu tố vật chất, là cái có thể cảm giác được, nó
bao gồm đất, nước, lửa, không khí. Còn danh là yếu tố tinh thần, không có hình chất
mà chỉ có tên gọi. Nó bao gồm thụ, tưởng, hành, thức (thụ là cảm thụ; tưởng là sự suy
nghĩ, tư tưởng; hành là ý muốn thúc để hành động; thức là sự nhận thức).
Chính cái “danh” và cái “sắc” kết hợp lại tạo thành “ngũ uẩn”. Ngũ uẩn tác động
qua lại tạo nên vạn vật và con người.Sự tồn tại của sự vật chỉ là tạm thời, thoáng qua,
không có sự vật nào tồn tại mãi mãi. Do đó, không có cái “bản ngã” hay cái tôi chân
thực.
Quan điểm “vô thường” cho rằng thế giới biến đổi không ngừng theo chu trình
bất tận: sinh, trụ, dị, diệt (hay thành, trụ, hoại, không). Do đó, không có cái gì là
trường tồn bất định chỉ có sự vận động biến đổi không ngừng.
Quan điểm về “duyên” (là điều kiện) giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả.
Phật giáo cho rằng, mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ đều chịu sự chi phối của luật
nhân duyên. Trong đó duyên là điều kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả.
Kết quả ấy lại nhờ có duyên mà trở thành nhân khác. Nhân khác lại nhờ có duyên mà
thành kết quả mới, cứ như vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của các sự vật.
Thông qua các phạm trù vô ngã, vô thường, duyên, triết học phật giáo đã bác bỏ
quan điểm duy tâm cho rằng thần Brahman sáng tạo ra con người và thế giới. Phật
giáo cho rằng con người và sự vật được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần,
các sự vật của thế giới nằm trong quá trình biến đổi không ngừng. Đó là quan điểm
duy vật biện chứng về thế giới, mặc dù còn chất phác, mộc mạc nhưng rất đáng trân
trọng.
Về triết lý nhân sinh của phật giáo.được thể hiện tập trung trong thuyết “Tứ
diệuđế” tức là bốn chân lý tuyệt diệu mà đòi hỏi mọi người phải nhận thức được.
Một là khổ đế: là triết lý về cuộc đời của con người là một bể khổ, ít nhất có
tám nỗi khổ (bát khổ). Đó là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu