Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

6 những biện pháp cụ thể để huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Lời Mở Đầu
Việt Nam xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ phát triển,
KTXH ở mức thấp hơn rất nhiều so với nước khác. Với tốc độ phát triển nhanh
chóng của các nước phát triển, thì khoảng cách kinh tế ngày càng dãn ra.Vì vậy
nhiệm vụ phát triển kinh tế của nước ta trong những năm tới là vượt qua tình
trạng của một nước nghèo, nâng cao mức sống của nhân dân và từng bước hội
nhập vào quỹ đạo kinh tế Thế Giới.
Tính tất yếu của XKTB với hình thức cao của nó là hình thức đầu tư trực
tiếp nước ngoài là xu thế phát triển của thời đại. Việt Nam cũng không nằm
ngoài trong luật đó nhưng vấn đề đặt ra là thu hút FDI như thế nào.
Với mục tiêu xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp và tiến hành
công nghiệp hoá và hiện đại hoá với mục tiêu lâu dài là cải biến nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế phù
hợp … cộng với thực hiện mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế trong đó có
việc nâng cao GDP bình quân đầu người lên hai lần như đại hội VII của Đảng đã
nêu ra. Muốn thực hiện tốt điều đó cần phải có một lượng vốn lớn. Muốn có
lượng vốn lớn cần phải tăng cường sản xuất và thực hành tiết kiệm. Nhưng với
tình hình của nước ta thì thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng cũng là một cách
tích luỹ vốn nhanh có thể làm được. Đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư trực
tiếp nói riêng là một hoạt động kinh tế đối ngoại có vị trí vai trò ngày càng quan
trọng, trở thành xu thế của thời đại. Đó là kênh chuyển giao công nghệ, thúc đẩy
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm việc làm và thu nhập, nâng cao
tay nghề cho người lao động, năng lực quản lý, tạo nguồn thu cho ngân sách…
Trên cơ sở thực trạng của đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, ta cũng cần
phải chú ý tới vấn đề tính tiêu cực của đầu tư TTNN. Cũng không phải là một
nước thụ động để mất dần vị thế mà xem vốn ĐTNN là quan trọng nhưng vốn
trong nước trong tương lai phải là chủ yếu.
Nhận thức đúng vị trí vai trò của đầu tư nước ngoài là hết sức cần thiết.
Chính phủ cũng đã ban hành chính sách đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Đồng
thời tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chúng ta bằng
những biện pháp mạnh về cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh… để thu hút
đầu tư nước ngoài. Với phương châm của chúng ta là đa thực hiện đa dạng hoá,
đa phương hoá hợp tác đầu tư nước ngoài trên cơ sở hai bên cùng có lợi và tôn
trọng lẫn nhau. Bằng những biện pháp cụ thể để huy động và sử dụng có hiệu
quả vốn ĐTTTNN trong tổng thể chiến lược phát triển và tăng trưởng kinh tế là
một thành công mà ta mong đợi.
Chương một
Một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài
I. Xuất khẩu tư bản:
1. Khái niệm xuất khẩu tư bản:
Trong thế kỷ XIX diễn ra quá trình tích tụ và tập trung Tư Bản mạnh mẽ.
Các nước công nghiệp phát triển đã tích luỹ được những khoản TB khổng lồ đó
là tiền đề cho xuất khẩu Tư Bản và đến giai đoạn chủ nghĩa độc quyền, xuất
khẩu Tư Bản là một đặc điểm nổi bật có tầm quan trọng đặc biệt, và trở thành sự
cần thiết của chủ nghĩa Tư Bản. Đó là vì Tư Bản tài chính trong quá trình phát
triển đã xuất hiện cái gọi là "Tư Bản thừa". Thừa so với tỷ suất, lợi nhuận sẽ cao
hơn. Trong lúc ở nhiều nước kinh tế lạc hậu cần Tư Bản để mở mang kinh tế và
đổi mới kỹ thuật, nhưng chưa tích luỹ Tư Bản kịp thời. Vậy thực chất xuất khẩu
Tư Bản là đem Tư Bản ra nước ngoài, nhằm chiếm được giá trị thặng dư và các
nguồn lợi khác được tạo ra ở các nguồn lợi khác được tạo ra ở các nước nhập
khẩu Tư Bản.
Ta đã thấy rằng việc xuất khẩu Tư Bản là "Tư Bản thừa" xuất hiện trong
các nước tiên tiến. Nhưng thực chất vấn đề đó là mang tính tất yếu khách quan
của một hiện tượng kinh tế khi mà quá trình tích luỹ và tập trung đã đạt đến một
độ nhất định sẽ xuất hiện nhu cầu ra nước ngoài. Đây cũng là quá trình phát
triển sức sản xuất của xã hội vươn ra Thế Giới, thoát khỏi khuân khổ chật hẹp
của quốc gia, hình thành quy mô sản xuất trên phạm vi quốc tế. Theo Lê Nin
"Các nước xuất khẩu Tư Bản hầu như bao giờ cũng có khả năng thu được một
số "lợi" nào đó" [29,90]. Chính đặc điểm này là nhân tố kích thích các nhà Tư
Bản có tiềm lực hơn trong việc thực hiện đầu tư ra nước ngoài. Bởi vì khi mà
nền công nghiệp đã phát triển, đầu tư trong nước không còn có lợi nhuận cao
nữa. Mặt khác các nước lạc hậu hơn có lợi thế về đất đai, nguyên liệu, tài
nguyên nhân công… lại đưa lại cho nhà đầu tư lợi nhuận cao, ổn định, tin cậy và
giữ vị trí độc quyền
Theo Lê Nin " Xuất khẩu tư bản" là một trong năm đặc điểm kinh tế của
chủ nghĩa đế quốc, thông qua xuất khẩu tư bản, các nước tư bản phát triển thực
hiện việc bóc lột đối với các nước lạc hậu và thường là thuộc địa của nó: Nhưng
ông không phủ nhận vai trò của nó. Trong thời kỳ đầu của chính quyền Xô Viết,
Lê Nin chủ trương sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài và khi đưa ra "Chính
sách kinh tế mới" đã nói rằng những người cộng sản phải biết lợi dụng những
thành tựu kinh tế và khoa học kỹ thuật của chủ nghĩa Tư Bản thông qua hình
thức kinh tế và khoa học kỹ thuật của chủ nghĩa Tư Bản thông qua hình thức "
Chủ nghĩa Tư Bản nhà nước" đã nói rằng những người cộng sản phải biết lợi
dụng những thành tựu kinh tế và khoa học kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản thông
qua hình thức "chủ nghĩa tư bản nhà nước". Theo quan điểm này nhiều nước đã
"chấp nhận phần nào sự bóc lột của chủ nghiã tư bản để phát triển kinh tế, như
thế có thể còn nhanh hơn là sự vận động tự thân của mỗi nước. Tuy nhiên việc
"xuất khẩu tư bản" phải tuân theo pháp luật của các nước đế quốc vì họ có sức
mạnh kinh tế, còn ngày nay thì tuân theo páhp luật, sự điều hành của mỗi quốc
gia nhận đầu tư.
2. Các hình thức xuất khẩu tư bản.
Gồm c ó hai hình thức chính:
Xuất khẩu tư bản cho vay: là hình thức cho chính phủ hoặc do tư nhân
vay nhằm thu được tỷ suất cao.
Xuất khẩu tư bản hoạt động: là đem tư bản ra nước ngoài, mở mang xí
nghiệp tiến hành sản xuất ra giá trị hàng hoá, trong đó có giá trị thặng dư tại
nước nhập khẩu.
Đầu tư hoạt động gồm có đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp: là đầu tư chủ yếu mà chủ đầu tư nước ngaòi đầu tư toàn
bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm dành quyền điêù hành hạơc
tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, thương
mại.