Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

“ Một số vấn đề quản lý đầu tư phát triển ngành thủy lợi Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Trong tình hình yêu cầu phát triển kinh tế xã hội mạnh mẽ như hiện nay,
sự nghiệp của toàn dân tộc nói chung cũng như sự nghiệp phát triển ngành thủy
lợi nói riêng đã và đang tiếp tục lựa chọn các giải pháp và bước đi thích hợp để
phục vụ cho mục tiêu chung.
Dân tộc ta từ xa xưa đã biết lấy thuỷ lợi làm cơ sở cho sự tồn tại và phát
triển. Cùng với các hoạt động như đào kênh rạch, khai phá đất đai, đắp đê, ngăn
lũ lụt, xây dựng đất nước Việt Nam như ngày nay, cùng với sự phát triển chung
của nhân loại về khoa học và công nghệ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản
Việt Nam, được nhà nước đầu tư to lớn, được nhân dân hết lòng ủng hộ đã
giành được những kỳ tích to lớn, không những thuỷ lợi mang lại hiệu quả kinh
tế mà còn mang ý nghĩa chính trị - xã hội hết sức quan trọng và to lớn.
Đối với đặc điểm cụ thể của nước ta, trải qua thời kỳ chiến tranh khốc liệt
kéo dai, nông nghiệp vẫn phát triển với trên 80% dân số làm nghề nông, khi nào
mất mùa là khi đó mất trắng, đời sống nhân dân biết bao khổ cực, vất vả. Điều
đó gây ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp tới sự phát triển chung của cả
dân tộc. Chính vì vậy chúng ta thấy được tầm quan trọng to lớn như thế nào của
sự phát triển ngành thuỷ lợi.
Chính vì lý do đó mà trong chiến tranh cũng như trong giai đoạn hoà
bình, khi đất nước gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về đủ mọi mặt thì công
tác thủy lợi vẫn được Nhà nước ta tập trung đầu tư phát triển cùng với sự ủng
hộ to lớn của nhân dân nên đã giành được những thành tích quan trọng, góp
phần vào những chuyển biến và thành công của sản xuất nông nghiệp, biến đổi
nông thôn, phòng ngừa thiên tai, bảo đảm an toàn cho nhiều khu vực. Do đó mà
thuỷ lợi luôn được nhấn mạnh là “ biện pháp hàng đầu trong nông nghiệp”
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B 1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tuy có nhiều thành tựu song để sử dụng đạt hiệu quả cao nhất, mang lợi
ích tốt nhất thì ngành thuỷ lợi vẫn gặp phải không biết bao khó khăn. Tính đến
thời điểm này, không chỉ các nước đang phát triển như Việt Nam mà còn biết
bao quốc gia khác kể cả các nước phát triển cũng không thể giải quyết xong vấn
đề thuỷ lợi.
Với những thành tựu đã đạt được và cả những hạn chế đang tồn tại trong
đầu tư thuỷ lợi, trước tất cả những thách thức đang đặt ra đòi hỏi chúng ta phải
tiếp tục nghiên cứu, xác định phương hướng đầu tư phát triển thủy lợi trong sự
phát triển chung của ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Cùng với việc
tăng trưởng và phát triển mọi mặt trong nông nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu về
lương thực thực phẩm thì ở nhiều nước trên thế giới, sự phát triển thủy lợi đã
trở thành quy mô quốc gia. Đối với Việt Nam đang trong quá trình Công nghiệp
hoá- Hiện đại hoá đất nước vì vậy yêu cầu đầu tư phát triển thuỷ lợi lại càng cần
thiết hơn bao giờ hết.
Với ý nghĩa to lớn và sâu sắc đó, em xin trình bầy đề tài: “ Một số vấn
đề quản lý đầu tư phát triển ngành thủy lợi Việt Nam trong giai đoạn 2006-
2010” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
* Mục đích nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp nhằm góp phần:
- Sáng tỏ các vấn đề trong lý luận, phương pháp luận về đầu tư, vai trò nhiệm
vụ của thuỷ lợi từ đó làm rõ và hiểu sâu sắc hơn về sự cần thiết phải đầu tư vào
thủy lợi.
- Phân tích và đánh giá thực trạng đầu tư và hoạt động quản lý dự án đầu tư
phát triển thuỷ lợi ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất các phương hướng và giải pháp nâng cao quản lý đầu tư phát triển
thủy lợi.
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp:
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B 2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tình hình chung của công tác thuỷ lợi, sự hoạt động triển khai của ngành
thủy nông, các công trình thuỷ lợi nói chung, đi sâu nghiên cứu tình hình đầu tư
vào thuỷ lợi, công tác quản lý của các cơ quan chức năng trong hoạt động đầu
tư phát triển thuỷ lợi. Mặt khác, đối tượng chủ yếu của thuỷ lợi lại nhằm phục
vụ nông nghiệp nên ta lấy các chỉ tiêu về sản lượng lương thực, các công trình
được thực hiện làm đối tượng phân tích trực tiếp.
* Phạm vi nghiên cứu
Thu thập thông tin tư liệu, tài liệu tham khảo nghiên cứu và chọn lọc kinh
nghiệm của các nước đi trước với tư duy khoa học, khách quan và thực tiễn để
đề xuất kiến nghị những định hướng nhằm phục vụ cho hoạt động đầu tư phát
triển thuỷ lợi đem lại hiệu quả cao hơn.
Luận văn nghiên cứu tình hình hoạt động trên lĩnh vực thủy lợi và công
tác quản lý tại Việt Nam thời gian qua và xu hướng 5 năm tiếp theo. Những
quan điểm, phương hướng, một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư
phát triển thuỷ lợi của quốc gia, mang lại tác động hữu ích và cao nhất có thể
đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và riêng ngành nông nghiệp nói riêng.
* Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn bao gồm 3 phần:
CHƯƠNG I:
Lý luận về đầu tư và quản lý đầu tư phát triển ngành thuỷ lợi
CHƯƠNG II:
Thực trạng quản lý đầu tư phát triển ngành thủy lợi Việt Nam thời gian
qua
CHƯƠNG III:
Định hướng và giải pháp quản lý đầu tư phát triển ngành thuỷ lợi Việt
Nam giai đoạn 2006-2010.
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B 3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
1. Khái niệm đầu tư và bản chất của đầu tư
1.1. Khái niệm đầu tư
“Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các
nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.” 1
Nguồn lực ở đây có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động
và trí tuệ. Những kết quả có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính ( tiền vốn),
tài sản vật chất ( nhà máy, đường sá, các của cải vật chất…) và nguồn nhân lực
có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Những kết quả đạt được từ việc đầu tư này thì cả nền kinh tế được thụ hưởng
chứ không chỉ riêng các nhà đầu tư. Đó chính là khái niệm đầu tư hiểu theo
nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn
lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai
lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Tóm lại, thuật ngữ “ đầu tư” có thể được hiểu đồng nghĩa với “ sự bỏ ra”,
“ sự hy sinh”. Vì vậy, có thể coi “đầu tư” là sự bỏ ra, sự hi sinh những cái gì đó
ở hiện tại nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai.
1 Giáo trình kinh tế đầu tư; NXB Giáo dục, 1998; Chủ biên PGS. TS Nguyễn
Ngọc Mai, tr 16
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B 4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.2. Bản chất của đầu tư
Quá trình tiến hành một công cuộc đầu tư là kể từ khi bắt đầu chi phí các
nguồn lực cho đến khi các thành quả của quá trình đầu tư phát huy tác dụng và
ngừng hoạt động. Có rất nhiều công việc phải làm với tính chất kỹ thuật rất đa
dạng, đòi hỏi phải sử dụng kiến thức của rất nhiều ngành kinh tế, kỹ thuật, phải
biết sử dụng và phối hợp trong việc sử dụng đội ngũ các chuyên gia thuộc các
lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật khác nhau vào quá trình thực hiện đầu tư theo từng
giai đoạn và toàn bộ các công cuộc đầu tư.
Hơn nữa, hoạt động đầu tư đòi hỏi một số vốn rất lớn và để nằm khê
đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá rất lớn phải trả của
hoạt động đầu tư nói chung. Bên cạnh đó, thời gian để tiến hành một công cuộc
đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng mất khá nhiều thời
gian, công sức và rất nhiều rủi ro có thể xảy ra bất kỳ lúc nào.
Tuy nhiên, các thành quả của nó lại có giá trị sử dụng lâu dài và có ảnh
hưởng lớn đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội nếu như hoàn thành được
các chỉ tiêu đã đề ra.
2. Phân loại hoạt động đầu tư2
Hoạt động đầu tư được các nhà quản lý kinh tế phân loại theo nhiều tiêu
thức khác nhau, tuỳ theo mục đích sử dụng, đáp ứng cho từng nhu cầu quản lý
khác nhau.
- Phân chia theo bản chất của các đối tượng đầu tư hoạt động đầu tư: đầu
tư cho các đối tượng vật chất, đầu tư cho các đối tượng tài chính, đầu tư cho
các đối tượng phi vật chất.
2 Giáo trình kinh tế đầu tư; NXB Giáo dục, 1998; Chủ biên PGS. TS Nguyễn
Ngọc Mai, tr 38
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B 5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Phân chia theo cơ cấu tái sản xuất: đầu tư theo chiều rộng, đầu tư theo
chiều sâu.
- Phân chia theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư:
đầu tư phát triển, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng…
- Phân chia theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư: đầu tư cơ
bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định, đầu tư vận hành các tài sản lưu động
cho các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ mới hình thành
- Phân theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình
sản xuất xã hội: Đầu tư thương mại, đầu tư sản xuất
- Phân theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng: đầu tư ngắn hạn,
đầu tư dài hạn
- Phân theo nguồn vốn: Nguồn vốn huy động trong nước, nguồn vốn huy
động của nước ngoài
Có rất nhiều khái niệm cũng như cách phân loại khác nhau về hoạt động
đầu tư, tuy nhiên, xuất phát từ bản chất và lợi ích của đầu tư đem lại thì cách
phân loại đầu tư quan trọng và có ý nghĩa nhất là phân thành: đầu tư tài chính,
đầu tư thương mại và đầu tư tài sản vật chất và sức lao động.
* Đầu tư tài chính: Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra sản phẩm mới
cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu
tư cũng là một loại đầu tư tài chính tuy nhiên với mục đích thu lời cá nhân thì bị
cấm vì gây ra nhiều tệ nạn cho xã hội. Đây là loại hình đầu tư trong đó người có
tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định
trước hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty phát hành.
Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được
lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng. Do đó nó
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B 6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
khuyến khích người có tiền bỏ ra đề đầu tư. Đây là một nguồn cung vốn lớn và
quan trọng bậc nhất cho đầu tư phát triển.
* Đầu tư thương mại: Đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình
lưu thông của cải vật chất cho đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư
phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất,
kinh doanh dịch vụ nói riêng và cả nền sản xuất xã hội nói chung. Đây là loại
hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán ra
với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua vào và bán ra.
Loại hình đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, mà chỉ làm
tăng tài sản của chính người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao
quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và với khách hàng của
họ.
* Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động: Đây là loại hình đầu tư trong
đó người có tiền bỏ ra để tiến hành các loại hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới
cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội
khác, là điều kiện chủ yếu để tạo ra việc làm, nâng cao đời sống của mọi người
dân trong xã hội. Ví như, bỏ tiền ra để xây dựng nhà cửa, sửa chữa nhà cửa và
các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi
dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với
hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.
Nói tựu chung lại, đây là loại hình đầu tư quan trọng nhất hay đầu tư phát triển.
Đầu tư phát triển này là điều kiện chủ yếu để tạo ra công ăn việc làm,
nâng cao mức sống của toàn dân trong xã hội cũng như góp phần cải tạo, phát
triển đất nước. Là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái sản xuất giản đơn và
tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung và
của địa phương ngành, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng.
3. Vai trò của hoạt động đầu tư phát triển
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B 7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
3.1. Đối với nền kinh tế
3.1.1. Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu của
nền kinh tế
- Về mặt cầu: Theo như số liệu của Ngân hàng thế giới ( World Bank),
đầu tư chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế ( khoảng từ
24-28%) trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đối với
tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn, với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự
tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng, kéo theo sản lượng cân bằng tăng
theo và dẫn tới giá và các đầu vào của đầu tư cũng tăng theo. Hay muốn tiến
hành mua máy móc thiết bị thì phải có tiền để đầu tư và tiến hành huy động các
nguồn lực nhàn rỗi đang “ nằm chết” trong dân vào hoạt động kinh tế. Khi đó,
các tiềm lực này mới được khai thác và đem lại hiệu quả nhất định nào đó như
tạo việc làm, tăng thu nhập, tăng ngoại tệ…
- Về mặt cung: Đầu tư đi vào hoạt động, mang lại hiệu quả cho xã hội,
các nguồn đầu ra, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung hay nói
chính xác hơn là tổng cung dài hạn sẽ tăng lên, làm cho sản lượng tiềm năng
tăng và giá cả sản phẩm giảm. Với giá cả giảm ở mức độ nhất định nào đó,
điều tất yếu là sẽ kích thích tăng tiêu dùng trong đại đa số các bộ phận. Và đó là
nguyên nhân khiến cho sự sản xuất sản phẩm tiêu dùng, dịch vụ lại có lý do để
mở rộng và phát triển. Sản xuất kinh doanh phát triển chính là điểm cốt lõi, là
nòng cốt của sự phát triển xã hội, của sự tăng tích luỹ, của sự giàu có, của sự
gia tăng thu nhập người lao động và hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn của
mọi người dân trong xã hội. Đó chính là mục tiêu hướng tới.
3.1.2. Đầu tư có tác động hai mặt tới sự ổn định kinh tế
Bất cứ một hoạt động nào hầu như cũng đều có tác động hai mặt, không
thể tránh khỏi, đầu tư cũng không phải là ngoại lệ: Dù là tăng hay giảm, đầu tư
cũng cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn
định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Lý do là vì nó tác động không đồng đều
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B 8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
về mặt thời gian đối với tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Ví như, khi
tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá của hàng hoá có liên
quan ( như giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật tư) đến một mức độ
nào đó sẽ dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản
xuất đình trệ, đời sống ucả người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương
ngày càng thấp, thâm hụt ngân sách, kinh tế sẽ phát triển chậm lại. Mặt khác,
tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các
ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng
cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả những tác động này tạo
điều kiện cho sự phát triển kinh tế.
Ngược lại, khi giảm đầu tư thì nó cũng có tác động hai mặt đến nền kinh
tế mỗi quốc gia. Một mặt, khi giảm đầu tư sản xuất của các ngành chậm phát
triển do thiếu vốn, giảm lực lượng lao động dẫn đến tình trạng thất nghiệp, đời
sống của người lao động cũng giảm… Mặt khác, khi giảm đầu tư thì giá các
hàng hoá có liên quan không tăng, thậm chí còn giảm khi đó nó sẽ giảm được
tình trạng lạm phát. Chính vì sự tác động hai mặt rất phức tạp của đầu tư đối
với tình hình kinh tế của quốc gia, nên vai trò, trách nhiệm của các nhà hoạt
động kinh tế vĩ mô là hết sức khó khăn, vất vả. Làm sao để hạn chế tối đa, kiểm
soát trong tầm tay những ảnh hưởng tiêu cực, và phát huy tận lực mọi tiềm
năng, mọi cống hiến mà đầu tư đem lại cho toàn bộ nền kinh tế. Với tất cả nỗ
lực quản lý, mục tiêu cuối cùng là làm sao duy trì sự ổn định và phát triển nền
kinh tế quốc dân ngày một đi lên.
3.1.3 Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của
đất nước.
Với những đặc tính riêng biệt vốn có của mình, bất cứ một quốc gia nào
cũng mong muốn có được những tài nguyên công nghệ mới nhất, hiện đại nhất
phục vụ cho công cuộc kiến thước nước nhà. Tuy nhiên, dù là tự nghiên cứu
triển khai bằng sức lao động của các nhà nghiên cứu khoa học hay đi mua lại
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B 9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
của các nước phát triển đi trước thì đều phải cần có vốn để đầu tư. Do đó, ta
mới thấy được tầm quan trọng của đầu tư là to lớn đến thế nào. Mọi phương án
đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là phương án không khả
thi. Đất nước ta hiện nay đang trong tiến trình phát triển mạnh mẽ, trong công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở rộng phát triển các thành phần kinh tế
thì vai trò của công nghệ lại càng cần thiết và hữu ích hơn bao giờ hết. Công
nghệ về nội dung gồm có 4 yếu tố chính: trang thiết bị , kỹ năng của con người,
thông tin, tổ chức thể chế. Chính vì vậy mà xét về nội dung thì để tăng cường
khả năng khoa học và công nghệ của đất nước cần phải đầu tư mua sắm trang
thiết bị, thu thập thông tin, đào tạo nguồn nhân lực… Đây chính là những công
việc cụ thể, thiết thực nhất trong giai đoạn hiện nay của nước ta trong tiến trình
hội nhập và phát triển.
3.1.4. Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các
vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo,
phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, văn hoá,
chính trị… của những vùng có khẳ năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp để
thúc đẩy sự phát triển chung của các địa phương khác, là điều kiện để kiến tạo
một đất nước phát triển đồng đều, toàn diện giữa các vùng, miền, địa phương
trong cả nước. Vì lý do hạn hẹp về đất đai và khả năng sinh học nên các ngành
nông, lâm ngư nghiệp để phát triển nhanh với tốc độ cao là điều hết sức khó
khăn và khó có thể xảy ra. Do đó, cũng như các quốc gia phát triển trên thế giới
đã thực hiện và có kết quả to lớn như ngày nay là nhờ sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế sang các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đây chính là điểm cốt lõi của
sự phát triển lâu dài và bền vững cho bất kỳ một quốc gia nào trong điều kiện
hiện nay.
3.1.5. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế
SV: Nguyễn Mai Dương Lớp Quản lý Kinh tế 44B 10